Những hạn chế trong nghiên cứu khoa học

Những hạn chế trong nghiên cứu khoa học
Chặng đường NCKH của các nhóm nghiên cứu sinh viên chúng mình đã đến giai đoạn nước rút, bạn đã tiến hành viết báo cáo nghiên cứu nhưng lại đang loay hoay chưa biết viết phần khuyến nghị và kết luận như thế nào? Tiếp tục đồng hành cùng các UEBer trong giai đoạn cuối của hành trình nghiên cứu năm nay, Cộng đồng RCES sẽ chia sẻ một số lưu ý giúp bạn viết phần những nội dung này thật tốt và ấn tượng qua bài viết này.

Những hạn chế trong nghiên cứu khoa học
 Phần khuyến nghị

Phần khuyến nghị thường là chương cuối cùng của một công trình nghiên cứu với nội dung đề cập những khuyến nghị về mặt chính sách cho các cơ quan có thẩm quyền (Chính phủ, các cơ quan Nhà nước) hay các giải pháp, khuyến nghị tới những đối tượng khác có liên quan đến công trình nghiên cứu như các doanh nghiệp, hệ thống ngân hàng, địa phương, người dân, …

1. Một số nội dung cần lưu ý trong phần Khuyến nghị:

– Đối với phạm vi nghiên cứu nhỏ, hạn chế về đối tượng nghiên cứu, nên đặt tên phần này là Gợi ý (Hàm ý) chính sách thay vì Khuyến nghị;

– Các giải pháp đưa ra trong phần khuyến nghị cần gắn với các kết quả nghiên cứu được chỉ ra trong các nội dung trước để đảm bảo sự logic về mặt liên kết.

Ví dụ, từ những hạn chế được chỉ ra từ kết quả nghiên cứu, đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục; hay từ những nhân tố quan trọng được chỉ ra trong kết quả nghiên cứu, đưa ra các giải pháp để đơn vị tiếp nhận chú ý nhiều hơn tới những nhân tố này.

– Phần khuyến nghị cũng cần được được hỗ trợ bởi các tài liệu tham khảo làm nền tảng thông tin cần thiết để các giải pháp đưa ra không bị sáo rỗng và phi thực tế. Các thông tin này có thể là cơ sở lí luận đã được trình bày trong bài, kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới hay bối cảnh kinh tế -xã hội trong thời điểm nghiên cứu.

– Đề nghị ứng dụng kết quả nghiên cứu trong sản xuất, giảng dạy, … (nếu có thể).

2. Một số lỗi thường gặp khi trình bày khuyến nghị:

– Các khuyến nghị không liên quan đến nội dung nghiên cứu

Lỗi này xảy ra khi người nghiên cứu trình bày các khuyến nghị “không liên quan” và không có giá trị trong phạm vi bài nghiên cứu. Để khắc phục lỗi này, người viết cần đi từ kết quả nghiên cứu để đề xuất các khuyến nghị, giải pháp để các khuyến nghị được thuyết phục. Ngoài ra, nên chú ý với bối cảnh kinh tế – xã hội để đưa ra các khuyến nghị mang hơi thở thực tiễn.

– Các khuyến nghị dài nhưng quá chung chung, tản mạn

Lỗi này dễ xảy ra khi người viết cố kéo dài nội dung để đạt độ dài của phần này như mong muốn nhưng nội dung trình bày không rõ ý và tản mạn. Nếu người viết không có luận điểm rõ ràng và lập luận, dẫn chứng hợp lí thì dễ mắc phải lỗi này.

>> Xem thêm: Những lỗi thường gặp khi viết báo cáo nghiên cứu

Những hạn chế trong nghiên cứu khoa học
 
Phần kết luận

Phần kết luận là một trong những nội dung quan trọng trong bài nghiên cứu với nội dung khẳng định mức độ giải quyết câu hỏi nghiên cứu, chỉ ra những đóng góp bằng việc tóm tắt những điểm kết luận chính (key-findings) của công trình nghiên cứu, và trình bày hạn chế, hướng phát triển của nghiên cứu. Một số nội dung cần chú ý trong phần kết quả nghiên cứu:

1. Khẳng định mức độ giải quyết câu hỏi nghiên cứu

Suy cho cùng, nghiên cứu khoa học là việc trả lời câu hỏi nghiên cứu theo phương pháp khoa học. Vì vậy, trong phần này, nhóm nghiên cứu phải kết luận được mình đã trả lời được câu hỏi nghiên cứu đưa ra hay chưa? Việc đưa ra kết luận này cần được đối chiếu với câu hỏi nghiên cứu đã được nêu ra ở phần mở đầu.

2. Chỉ ra những đóng góp của nghiên cứu về mặt khoa học và mặt thực tiễn bằng cách nêu bật những đóng góp quan trọng (key-findings) và những hiểu biết mới từ bài nghiên cứu.

Đây là những điều mà bạn muốn người đọc nhớ đến nhiều nhất sau khi đọc công trình nghiên cứu của mình. Các phát biểu này cần phải được nhấn mạnh một cách đầy đủ nhưng không lan man về phân tích (việc phân tích đã được trình bày trong phần Kết quả và Thảo luận – Results and Discussion). Lưu ý, phần này chỉ mang tính tóm tắt nhằm nổi bật đóng góp quan trọng về mặt học thuật và thực tiễn, người viết không liệt kê hay trình bày các bảng biểu, đồ thị hay các con số chi tiết.

3. Chỉ ra hạn chế và hướng phát triển của nghiên cứu

Khi trình bày hạn chế của nghiên cứu, người viết cần sử dụng ngôn ngữ chắc chắn nhưng không quá tự đề cao hay hạ thấp các hạn chế trong bài nghiên cứu của mình. Việc lựa chọn từ ngữ có sắc thái nghĩa phù hợp ở đây là rất quan trọng; để tác giả tránh đưa ra nhận định không tích cực vì đây chính là những hạn chế do nhóm nghiên cứu “tự thừa nhận”. Hướng phát triển chính là những nghiên cứu có thể được thực hiện nhằm cải thiện các hạn chế hoặc hướng mới của nghiên cứu trong tương lai.

Cộng đồng sinh viên kinh tế nghiên cứu khoa học (RCES)

Những hạn chế trong nghiên cứu khoa học

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.


Page 2

YOMEDIA

Những khó khăn thường gặp trong nghiên cứu khoa học của sinh viên Qua nghiên cứu cho thấy sinh viên gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình nghiên cứu khoa học mà chủ yếu là khó khăn khi triển khai các khâu của qui trình nghiên cứu một đề tài khoa học. Theo tác giả sở dĩ sinh viên gặp phải những khó khăn trong quá trình nghiên cứu khoa học là bởi vì ở sinh viên việc hình thành và phát triển kỹ năng nghiên cứu khoa học còn nhiều hạn chế. Từ đó tác giả đã đưa...

31-08-2013 558 78

Download

Những hạn chế trong nghiên cứu khoa học

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Đề tài khoa học cất trong tủ kính?

Hằng năm, ở nước ta có hàng nghìn đề tài NCKH được đăng ký nghiên cứu tại các cơ sở khoa học. Hãy thử làm một phép tính nhỏ, mỗi năm có hàng trăm, hàng nghìn thạc sĩ, tiến sĩ “ra lò”, mà mỗi đề tài, luận án chính là một sản phẩm khoa học. Đó là chưa kể đến hàng nghìn công trình, đề tài NCKH khác có tầm cỡ từ cấp Trung ương về cơ sở, nhất là ở các đơn vị NCKH chuyên nghiệp được hoàn thiện, nghiệm thu. Vậy những đề tài NCKH đó, sau khi được đánh giá, nghiệm thu xong sẽ đi về đâu, ứng dụng thế nào?

Có một thực tế tồn tại lâu nay trong lĩnh vực NCKH ở nước ta, đó là đề tài khoa học thì nhiều, nghiệm thu "nghiêm túc" và đánh giá xuất sắc là chủ yếu, nhưng việc ứng dụng vào thực tiễn lại chưa được bao nhiêu. Thậm chí, đại đa số sản phẩm ấy lại được xếp ngay ngắn trong ngăn kéo hoặc trưng bày rất đẹp trong các tủ kính. Không khó để nhận ra những ổ khóa hoen gỉ, những sản phẩm đề tài bị phủ bụi kín vì quá lâu ngày chẳng ai sờ đến!

Nguyên nhân của thực trạng trên thì có nhiều, nhưng xét về bản chất thì những sản phẩm nghiên cứu ấy vốn dĩ ban đầu chưa bám sát hoặc không bám sát yêu cầu thực tiễn, không đáp ứng được đòi hỏi "thị trường khoa học" và không chạm tới nhu cầu mà đời sống xã hội đang cần... Bởi thế, khi sản phẩm khoa học hoàn thành thì “trống giong cờ mở”, nhưng các bước vận dụng, ứng dụng tiếp theo thì "vạn dặm mù mờ".

Những hạn chế trong nghiên cứu khoa học
Những hạn chế trong nghiên cứu khoa học
Những hạn chế trong nghiên cứu khoa học
Những hạn chế trong nghiên cứu khoa học
Những hạn chế trong nghiên cứu khoa học
Ảnh minh họa: tienphong.vn

Đã nhiều lần trên nghị trường Quốc hội, các đại biểu Quốc hội chất vấn người đứng đầu các ngành, lĩnh vực về chuyện kết quả, hiệu quả trong công tác NCKH. Nhiều người đặt câu hỏi, liệu có hay không chuyện dễ dãi khi xét duyệt và nghiệm thu đề tài? Rồi đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, thiếu các công trình NCKH chủ lực...? Dù là nguyên nhân gì đi chăng nữa thì những công trình, đề tài khoa học được nghiệm thu, đánh giá đã tốn biết bao thời gian, công sức nghiên cứu, tiền của đầu tư... nhưng lại xếp vào tủ kính thì vô cùng lãng phí.

Mục tiêu của NCKH không có gì khác là sáng tạo ra cái mới để phục vụ đời sống, nâng cao năng suất lao động và cải biến tự nhiên, xã hội, tư duy con người.Do đó, để không còn những đề tài khoa học phải xếp vào tủ kính thì trước hết, cơ quan chức năng, cấp có thẩm quyền phê duyệt, xét duyệt đề tài cần đặt ra yêu cầu rất cao về tính ứng dụng của đề tài. Phải nhất quán quan điểm rằng: Nếu không đề xuất được tính ứng dụng sản phẩm khoa học thì không nên nghiên cứu và nếu sản phẩm khoa học khi hoàn thành không đưa vào thực tiễn áp dụng thì đề tài đó chẳng có giá trị gì cả!

(Tiến sĩNGUYỄN VĂN NGUYÊN,giảng viên Học viện Ngân hàng)

--------

Thủ tục rườm rà “trói” nhà khoa học

Đây là đánh giá chung của các nhà khoa học khi đề cập đến những quy trình, thủ tục hành chính để tiến hành các bước đăng ký, xét duyệt, hoàn thiện, thẩm định... một đề tài khoa học, nhất là các thủ tục liên quan đến kinh phí thực hiện. Thậm chí, nhiều nhà khoa học không ngại việc nghiên cứu, nhưng lại "ngán ngẩm" bởi có quá nhiều thủ tục rườm rà để được chi trả kinh phí, quyết toán đề tài và quy trình xem xét, đánh giá sản phẩm khoa học... Cũng vì thủ tục hành chính mà không ít nhà khoa học như bị rơi vào những túng bận, rối rắm; rồi vơi cạn dần niềm đam mê khoa học. Đáng buồn hơn là thực trạng này tồn tại trong suốt nhiều năm qua, nhiều tổ chức, cá nhân đã lớn tiếng đấu tranh, yêu cầu đơn giản hóa những thủ tục không đáng có, nhưng xem ra phần việc này vẫn ì ạch một cách khó hiểu. Nókhiến cho sức sáng tạo của mỗi tập thể, cá nhân vô hình trung bị bào mòn mà nguyên nhân sơ đẳng, cố hữu là bởi thủ tục "hành là chính".

Để tạo động lực cho các nhà khoa học, đội ngũ cán bộ, đảng viên tích cực NCKH, cơ quan chức năng đã ban hành rất nhiều thông tư quy định về thủ tục đăng ký, xét duyệt, tổ chức, thẩm định...; nhất là quy định về khoán chi trong NCKH. Trong đó nổi bật là Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC năm 2015 giữa Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tài chính. Theo đó, thay vì đầu tư dàn trải, Nhà nước đầu tư có mục đích thông qua việc khoán chi, tạo điều kiện cho các viện, trung tâm, cơ sở nghiên cứu hiện thực hóa các mục tiêu nghiên cứu.

Đứng trên góc độ quản lý nhà nước là vậy, còn thực tiễn nghiên cứu thì vẫn còn đó không ít vướng mắc. Bởi lẽ, với phần thanh quyết toán, dự trù kinh phí NCKH, việc lập hồ sơ dự án xin kinh phí là nỗi “đau đầu” của các nhà khoa học với thủ tục kê khai quá chi tiết, nặng vềtàichính đã khiến cho hồ sơ đề tài thêm dày, thêm nặng. Đó là chưa kể một công trình nghiên cứu có thể kéo dài nhiều năm, giá nguyên vật liệu, tiền công lao động phục vụ công tác nghiên cứu những năm sau có sự chênh lệch so với thời điểm lập dự toán.

NCKHkhông giống như các lĩnh vực sản xuất hay xây dựng cơ bản, không phải là một công đoạn trong quá trình sản xuất, lắp ráp. Và nhà khoa học không phải bất cứ ai cũng đều am hiểu, có kiến thức toàn diện về lĩnh vực kinh doanh, hạch toán. Bởi vậy, họ khó có thể tính toán chi tiết những khoản chi phí phải có trong công trìnhNCKHcủa mình và việc giải trình từng phần trong đề tài nghiên cứu (cụ thể mức kinh phí) cho từng giai đoạn sẽ gây khó cho các nhà khoa học.

(Tiến sĩTRẦN HUY NGỌC,Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên)

--------

Công bằng trong đánh giá sản phẩm khoa học

Sản phẩm khoa học là thành quả của quá trình sáng tạo. Dù là nhà khoa học chuyên nghiệp làm việc trong các cơ sở NCKH hay là người nông dân, thợ lao động thủ công... thì mỗi sản phẩm khoa học đều được kết tinh từ trí tuệ, từ quá trình tổng kết thực tiễn để rồi “thai nghén”, cho ra đời với mục đích ứng dụng vào thực tiễn, phục vụ cuộc sống và vì lợi ích chung. Thế nhưng ở nhiều nơi vẫn tồn tại khá phổ biến tư duy xem nhẹ những sản phẩm nghiên cứu của người dân, dù rằng giá trị và giá trị sử dụng của nó rất đáng được ghi nhận, tôn vinh, khen thưởng.

Chúng ta thấy rằng, lâu nay, các phương tiện truyền thông vẫn thường xuyên giới thiệu các nhà khoa học không chuyên ở trên khắp mọi miền đất nước với những tên gọi khác nhau, như “kỹ sư nông dân”, “nhà khoa học chân đất”... Họ là những người nông dân, công nhân lao động vì đam mê khoa học, vì bản năng sáng tạo mà suy nghĩ, tìm tòi, chế tạo, sáng tạo ra những máy móc, công cụ sản xuất mới để phục vụ chính quá trình lao động sản xuất. Thế nhưng khi sáng tạo ra "sản phẩm khoa học", họ lại khó thiết lập được việc sở hữu trí tuệ, không được thụ hưởng các chính sách ưu đãi, khen thưởng như những nhà khoa học đã có chức danh khoa học, học hàm, học vị. Thậm chí, dù đượctruyền thông, báo chí ngợi ca, được một số tổ chức khoa học vinh danh nhưng hầu như tất cả chỉ dừng lại ở đó mà không có hoặc rất ít có thêm các hỗ trợ về kinh phí, nguồn lực hoặc hỗ trợ thương mại hóa, chuyển giao công nghệ. Cũng bởi thế, những sản phẩm khoa học của các“nhà khoa học chân đất” vẫn chỉ dừng lại ở mức là sản phẩm của đơn đặt hàng “một chiều” mà chưa thể vượt ra khỏi khuôn khổ những thửa ruộng, vườn cây, ao cá.

Trong khi các nhà khoa học tại những viện nghiên cứu khi đăng ký công trình, đề tài khoa học đều được bảo hộ, được hỗ trợ kinh phí, đầu tư nguồn lực, hoặc là được đặt hàng thì những nhà khoa học không chuyên hầu như đều tự thân vận động, tự lực cánh sinh. Không ít người, để có thể cho ra đời được "đứa con tinh thần" hoàn chỉnh đã phải trải qua hàng trăm lần thất bại, đánh đổi bằng cả gia sản mà cả đời dành dụm, tích cóp.

Tôi cho rằng, sáng tạo là không có điểm giới hạn, càng không thể có sự phân biệt giữa sản phẩm khoa học chuyên nghiệp hay không chuyên. Dù đó là sản phẩm do ai sáng tạo ra thì luôn có sự cạnh tranh lành mạnh, sòng phẳng trên thị trường khoa học và công nghệ; cần được ghi nhận đánh giá như nhau. Vì lý do đó, rất mong Nhà nước và cơ quan chức năng cần có thêm cơ chế khuyến khích tinh thần sáng tạo trong toàn dân, không chỉ là khen thưởng, tôn vinh mà phải thực sự đồng hành lâu dài với các nhà khoa học không chuyên thông qua những hình thức hỗ trợ về chính sách, kinh phí, chuyển giao công nghệ để những ý tưởng sáng tạo, sản phẩm khoa học của họ ứng dụng sâu rộng vào cuộc sống.

(Nghiên cứu sinhTRẦN THỊ QUỲNH DIỄN,Trường Đại học Y Hà Nội)