Một trong những quyết định quan trọng của đại hội đại biểu lần thứ hai của đảng là gì? *

Đại hội lần thứ nhất của Đảng (ngày 27 đến 31/3/1935) ở Áo Môn, Trung Quốc, Đại hội đề ra nhiệm vụ là khôi phục hệ thống tổ chức Đảng, khẳng định Luận cương chính trị tháng 10/1930 về cách mạng Việt Nam. Đã khôi phục tổ chức, thống nhất các phong trào đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội đã nêu ra 3 nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian trước mắt của toàn Đảng: (1) Củng cố và phát triển Đảng, tăng cường phát triển lực lượng Đảng vào các xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ,… (2) Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng. (3) Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, thành trì của cách mạng thế giới... Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị của Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, vận động nông dân, vận động thanh niên, phụ nữ, binh lính, về mặt trận phản đế, về đội tự vệ, về các dân tộc thiểu số... và Điều lệ của Đảng, điều lệ của các tổ chức quần chúng của Đảng.

Đại hội II của Đảng (từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951), tại Chiến khu Tuyên Quang, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Đại hội trù bị, chỉ rõ: “Đại hội ta là Đại hội kháng chiến. Nhiệm vụ chính của Đại hội ta là đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam. Vậy việc thảo luận cần đặt trọng tâm vào hai việc đó”. Đại hội vạch ra đường lối lãnh đạo toàn dân kháng chiến, kiến quốc đi đến thắng lợi hoàn toàn với chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm Châu, chấn động địa cầu”. Đại hội II là một sự kiện lịch sử trọng đại đánh dấu bước trưởng thành mới về tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng. Đảng ra công khai hoạt động với tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam, có cương lĩnh, đường lối, chính sách đúng đắn phù hợp với thực tiễn của đất nước có ý nghĩa quyết định đưa kháng chiến tiến lên giành những thắng lợi ngày càng lớn. Quan hệ giữa Đảng và nhân dân thêm gắn bó, sự lãnh đạo của Đảng đối với kháng chiến càng thêm thuận lợi. Sức mạnh của Đảng được tăng cường.  

Đại hội III (từ ngày 5 đến ngày 10/9/1960) tại Hà Nội, Đại hội đã xác định nhiệm vụ là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà. Để bảo đảm thắng lợi của cách mạng, vấn đề có ý nghĩa quyết định là “phải nâng cao hơn nữa sức chiến đấu của toàn Đảng ta, phát huy hơn nữa tác dụng lãnh đạo của Đảng ta trên mọi mặt công tác. “Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc... là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta”. Còn “cách mạng miền Nam có một vị trí rất quan trọng. Nó có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”. Đại hội III là “Đại hội... sẽ là nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng và toàn dân ta xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”. “Toàn Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ. Chúng ta sáng tạo. Chúng ta xây dựng. Chúng ta tiến lên”.

Đại hội IV (từ ngày 14 đến ngày 22/12/1976), Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Đại hội IV là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc; là đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; là đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.

Đại hội V (từ ngày 27 đến ngày 31/3/1982), Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm lại đường lối, chủ trương, đánh giá khách quan thành tựu và khuyết điểm. Đồng thời đề ra kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách nhất những vấn đề gay gắt, nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam, để ổn định và cải thiện một bước đời sống của nhân dân. Đại hội đánh dấu một sự chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.

Đại hội VI (từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986). Đại hội khẳng định “Quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học”. Đại hội xác định: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”. Đại hội VI là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ta. Thành công của Đại hội đã mở ra một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam, đưa đất nước bước sang một giai đoạn phát triển mới.

Đại hội VII được tiến hành vào tháng 6/1991, Đại hội xác định “Mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là vượt khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay”. Đại hội VII là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội thông qua là những văn kiện hết sức quan trọng, vạch ra những quan niệm, phương hướng, nhiệm vụ cơ bản những năm trước mắt cũng như thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 

Đại hội VIII (từ ngày 28/6 đến ngày 01/7/1996), với chủ đề là: Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Đại hội IX (diễn ra từ ngày 19 đến ngày 24/4/2001), Đại hội xác định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là đưa nước ta “ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thếcủa nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”. Đại hội IX là đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới, thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của toàn Đảng, toàn dân trong thời điểm trọng đại của dân tộc, mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đại hội X (diễn ra từ ngày 18 đến ngày 25/4/2006), Đại hội xác định chủ đề Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đại hội thông qua nhiều quyết sách quan trọng, mở đường cho sự nghiệp đổi mới tiếp tục đi lên. Đại hội xác định rõ hơn bản chất của Đảng. Điều lệ Đảng (sửa đổi, bổ sung) được Đại hội thông qua nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”. 

Đại hội XI (diễn ra từ ngày 12 đến ngày 19/01/2011). Đại hội chỉ rõ, mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đại hội XI là Đại hội mở đường cho đất nước tiến vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI.

Đại hội XII (từ ngày 21 đến ngày 28/01/2016). Với chủ đề “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội khẳng định, phải “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”, tiếp tục đổi mới tư duy, khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển của đất nước, nhận thức đúng đắn và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập. Đại hội XII của Đảng có ý nghĩa hết sức trọng đại. Thành công của Đại hội đã tạo tiền đề quan trọng, đưa đất nước tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại./.

Quốc Hùng

Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội II của Đảng (1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện những quan điểm, tư tưởng, sự chỉ đạo về nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam. Các quan điểm đó của Người, trở thành hệ giá trị lý luận quý báu, chỉ đường cho các kỳ đại hội của Đảng.

Một trong những quyết định quan trọng của đại hội đại biểu lần thứ hai của đảng là gì? *

Đại hội lần thứ II của Đảng. (Ảnh: T.L)

1. Dấu ấn trong công tác chuẩn bị Đại hội

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I họp ở Ma Cao (tháng 3-1935) đến Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951) cách nhau 15 năm 8 tháng, là khoảng thời gian dài nhất so với thời gian giữa các kỳ Đại hội. Trong thời gian đó, tình hình thế giới và Đông Dương có nhiều chuyển quan trọng, đặt ra những yêu cầu cấp bách đòi hỏi Đảng phải giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn phù hợp với thời cuộc; phải bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ, tiến lên chủ nghĩa xã hội; kịp thời hoạch định những chủ trương để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi; đặc biệt là, Đảng phải ra công khai lãnh đạo cách mạng với tư cách là một Đảng cầm quyền.

Để làm tròn nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang đó, Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã có một quá trình chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, chặt chẽ, để lại những dấu ấn và bài học quý. Ngay sau chiến thắng Việt Bắc, Hội nghị Trung ương mở rộng họp từ ngày 15 đến ngày 17-1-1948 đã đặt vấn đề chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ II. Tiếp đó, Hội nghị cán bộ lần thứ 6 (tháng 1-1949) nêu rõ việc chuẩn bị Đại hội lần thứ II của Đảng với hai nội dung quan trọng: “một là, Trung ương chuẩn bị đề án cho kịp thời, có đề án riêng cho các chi bộ; hai là, các địa phương phải gửi báo cáo tình hình mọi mặt về Trung ương trước tháng 3-1949”(1). Trong Báo cáo của Hội nghị, Tổng Bí thư Trường Chinh khẳng định công việc chuẩn bị Đại hội II của Đảng là một trong những nhiêm vụ lớn và không thể chậm trễ. Đại hội có mục đích: “Sửa đổi chính cương, Điều lệ Đảng. Đúc kinh nghiệm toàn quốc về mọi mặt quân sự, dân vận, Đảng và định rõ nhiệm vụ của Đảng ta mọi mặt trong giai đoạn kháng chiến hiện tại”(2).

Bế mạc Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ việc trước hết phải làm là “chỉnh đốn nội bộ Đảng. Phải nêu ra những việc chính, nắm lấy nó mà làm. Đảng ví như cái máy phát điện, các công việc trên ví như những ngọn đèn, máy mạnh thì đèn sáng”(3).

Dấu ấn đặc biệt trong quá trình chuẩn bị Đại hội II là Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Đại hội trù bị với những ý kiến chỉ đạo ngắn gọn, súc tích không chỉ phản ánh tư tưởng chủ đạo và nội dung chính của Đại hội là “…Đại hội kháng chiến. Nhiệm vụ chính của Đại hội ta là đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng lao động Việt Nam”(4), mà còn chứng tỏ Người rất quan tâm đến thành công của Đại hội thông qua gợi ý cách thảo luận. Người chỉ dẫn và nhấn mạnh “nghiên cứu thật sâu, thảo luận thật kỹ những vấn đề chính; hiểu rõ nội dung sự phát triển và sự quan hệ giữa vấn đề này với vấn dề khác; nên đưa các vấn đề vào hiện tại và tương lai hơn quá khứ; chỉ nên bàn kỹ, xét kỹ tư tưởng, chính sách, phương châm và tổ chức”(5).

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác chuẩn bị Đại hội II được tiến hành khoa học, chu đáo, cẩn trọng, thể hiện tầm quan trọng đặc biệt của Đại hội II, một đại hội phải tập trung giải quyết nhiều vấn đề cấp bách. Những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh cho thấy dấu ấn quan trọng về mặt phương pháp luận, đó là tập trung vào nhiệm vụ chính, nhiệm vụ trọng tâm, làm thật sâu, thật kỹ, chú ý các mối quan hệ và sự phát triển từ hiện tại tới tương lai. Người dặn “Đại hội ta cũng phải quân sự hóa”(6) là chỉ rõ mọi vấn đề phải xuất phát từ thực tiễn, từ hoàn cảnh cụ thể.

2. Dấu ấn trong các văn kiện trình bày tại Đại hội, thể hiện tập trung cho nhiệm vụ đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam

Đại hội lần thứ II của Đảng được tiến hành tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951, với sự tham dự của 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 766.349 đảng viên. Để đẩy mạnh kháng chiến, Đại hội đã đề ra 12 chính sách cơ bản để động viên, tập hợp sức mạnh toàn dân tộc quyết tâm giành thắng lợi. Đặc biệt, Đại hội nhất trí thông qua “Chính cương”, “Điều lệ” của Đảng và Nghị quyết đưa Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.

Tại Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày Báo cáo chính trị nêu rõ những biến đổi của đất nước và thế giới, những khó khăn của Đảng và Chính phủ, nhất là những ưu, khuyết điểm của Đảng. Người đặc biệt nhấn mạnh đến công tác xây dựng Đảng, cho rằng: “Đảng ta thành tích khá nhiều, nhưng khuyết điểm cũng không ít. Chúng ta cần phải thật thà tự phê bình để sửa chữa. Phải cố sửa chữa để tiến bộ”(7). Người chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém của cán bộ, đảng viên, từ Trung ương đến địa phương như: “Ở các cơ quan lãnh đạo các cấp, về lề lối làm việc, về chủ trương và cách lãnh đạo còn có những khuyết điểm khá phổ thông và nghiêm trọng. Ấy là những bệnh chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi và bệnh công thần”(8). Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng đã chỉ rõ nguyên nhân của những yếu kém: “Trong Đảng có những bệnh ấy và bệnh khác. Trung ương cũng phải chịu một phần trách nhiệm. Vì Trung ương chưa chú trọng việc kiểm tra. Sự huấn luyện về chủ nghĩa tuy có, nhưng chưa được khắp, chưa được đủ. Dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện rộng rãi. Phê bình và tự phê bình chưa thành nền nếp thường xuyên”(9). Chỉ đạo tại Đại hội II của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh những vấn đề rất quan trọng: Xác định những biến chuyển của tình hình thế giới; các giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam; sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm của Đảng; khẳng định vai trò, bản chất của Đảng; các nhân tố tạo nên sức mạnh nội lực của dân tộc.

Một trong những quyết định quan trọng của đại hội đại biểu lần thứ hai của đảng là gì? *

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, tháng 2/1951.(Ảnh tư liệu BTLSQG)

Về công tác lý luận của Đảng, tại Đại hội có nhiều ý kiến đề cập tới chủ nghĩa Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày rõ phương pháp vận dụng sáng tạo và áp dụng học thuyết này. Người nêu rõ: “Tôi thấy các đồng chí lên phát biểu ý kiến nhắc đến chủ nghĩa Mác luôn. Cái đó rất đúng. Nhưng mà nhắc đến chủ nghĩa Mác, phải áp dụng chủ nghĩa Mác cho đúng. Cốt yếu là ở đấy. Chủ nghĩa Mác là gì? Là cộng sản. Mà làm cộng sản thì ai lãnh đạo? Giai cấp công nhân…Nói chung toàn thế giới cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo, nhưng quyền lãnh đạo không phải cứ nói “ta lãnh đạo đây, ta lãnh đạo đây” mà phải tranh đấu, huấn luyện, tổ chức mà tranh lấy”(10).

Về tổ chức Đảng Cộng sản ở mỗi nước, theo đề nghị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, vào thời điểm đó trên cơ sở của Đảng Cộng sản Đông Dương nên tổ chức ở mỗi nước một Đảng Cộng sản để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc mình. Tại Đại hội, đồng chí Cayxỏn Phômvihản, đại diện nhân dân Lào phát biểu đáp từ đề nghị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, khẳng định những thành công của Đảng Cộng sản Đông Dương trong lãnh đạo cách mạng Đông Dương trong 21 năm qua, đã làm tròn nhiệm vụ do ba dân tộc giao phó, do tình hình thay đổi nên “…đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tách Đảng Cộng sản Đông Dương ra Đảng Lao động Việt Nam và ở Miên, Lào có hai tổ chức khác là rất đúng và thích hợp với tình hình mới; ba dân tộc có ba quốc gia rõ rệt…Chúng tôi, người cộng sản Lào tán thành đề nghị đó không chút thắc mắc”(11). Đại biểu Campuchia phát biểu: “Tôi nhận rằng từ trước đến nay, Đảng Cộng sản Đông Dương rất có thành tích trong việc lãnh đạo cách mạng Việt, Miên, Lào. Nhưng nay cách mạng ba nước có ba đặc tính riêng khác nhau, không thể có một Đảng bao trùm được mà Miên, Lào sẽ lập hai Đảng khác nhau. Vì thế tôi rất hoan nghênh đề nghị sáng suốt của Báo cáo chính trị”(12).

Trước những ý kiến, nguyện vọng của hai nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu thị niềm vui về quyết định của Đại hội xây dựng ba Đảng Cộng sản ở ba nước. Người bày tỏ: “Sau khi nghe các đồng chí ở Miên, Lào phát biểu ý kiến, chắc Đại hội cũng như tôi, chúng ta rất cảm động…Chúng ta như con một nhà, một nhà cộng sản, một nhà cách mạng. Bây giờ con cái đã lớn khôn rồi, phải chia nhà, chia cửa ở riêng. Con trai có vợ, con gái có chồng. Sau này con đẻ cháu đông đúc; từ gia đình nhỏ tiến lên gia đình lớn rất mạnh, từ gia đình lớn tiến lên họ hàng, họ hàng càng to, càng mạnh, đông người nhiều việc, nhất định chóng thành công”(13).

Về tại sao chúng ta lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam: “Là cốt để củng cố thêm vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, củng cố công nông liên minh, gắn bó giai cấp công nhân với các tầng lớp nhân dân lao động khác, thống nhất các lực lượng dân tộc và dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng”(14) và lấy tên Đảng Lao động Việt Nam chẳng những lợi cho việc đoàn kết toàn dân đánh bại quân xâm lược, mà còn lợi cho việc thống nhất mặt trận phản đế của ba dân tộc Việt, Miên, Lào chống đế quốc Pháp - Mỹ, giành độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(15). Đây là sáng tạo đặc biệt của Hồ Chí Minh khi nói về bản chất giai cấp công nhân của Đảng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nước ta.

Các văn kiện được trình bày tại Đại hội đều thể hiện dấu ấn, tư tưởng và công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Luận cương cách mạng Việt Nam do đồng chí Trường Chinh đọc khẳng định Hồ Chủ tịch, Người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng. Báo cáo nêu lên nhiều phẩm chất cao quý, đức độ, tài năng, bản lĩnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là biểu tượng sáng ngời của đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; nêu gương sáng về tinh thần kiên quyết đấu tranh, lòng trung thành rất mực với Đảng, với giai cấp và dân tộc. Đặc biệt, báo cáo nhấn mạnh bản lĩnh, trí tuệ và tư duy đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Người dạy chúng ta mỗi khi tình hình đổi mới, điều kiện mới của cuộc vận động cách mạng đã đẻ ra, thì phải lập tức xét lại chủ trương, chính sách và phương pháp vận động, căn cứ vào tình hình mới mà định phương châm chiến lược và chiến thuật, không nên bám lấy những khuôn khổ cũ kỹ”(16).

Những chỉ đạo đó của Người, cho đến nay, vẫn còn nguyên giá trị được thể hiện xuyên suốt trong các kỳ đại hội của Đảng, nhất là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Đại hội khẳng định, Đảng tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh; tiếp tục nâng cao bản lĩnh, năng lực lãnh đạo, cầm quyền trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại.

----------

(1)Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.24.

(2)Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập10, tr.149.

(3)Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập.6, Nxb CTQG, H, 2011, tr 15.

(4)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr 15.

(5)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.14.

(6)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.14.

(7)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr 32.

(8)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr 33.

(9)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr 35.

(10)Dẫn theo: Ban Tuyên giáo Trung ương – Tỉnh ủy Tuyên Quang, Đại hội II của Đảng tại Tuyên Quang Thủ đô kháng chiến, Nxb CTQG, HN,2011, tr 115.

(11)Dẫn theo: Ban Tuyên giáo Trung ương – Tỉnh ủy Tuyên Quang, Đại hội II của Đảng tại Tuyên Quang Thủ đô kháng chiến, Nxb CTQG, HN,2011, tr 117.

(12)Dẫn theo: Ban Tuyên giáo Trung ương – Tỉnh ủy Tuyên Quang, Đại hội II của Đảng tại Tuyên Quang Thủ đô kháng chiến, Nxb CTQG, HN,2011, tr 117.

(13)Dẫn theo: Ban Tuyên giáo Trung ương – Tỉnh ủy Tuyên Quang, Đại hội II của Đảng tại Tuyên Quang Thủ đô kháng chiến, Nxb CTQG, HN,2011, tr 117.

(14)Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.156

(15)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.41.

(16)Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.174.

Theo https://hochiminh.vn/