Hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ QUA BA TÁC PHẨM: “VỢ CHỒNG A PHỦ” </b><b>CỦA TƠ HỒI, “VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN VÀ “CHIẾC THUYỀN NGOÀI </b><b>XA” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU </b>


Phụ nữ là đề tài quen thuộc trong nền văn học Việt Nam, nhất là những phụ nữ có số phận nhỏ bé, chịu nhiều đắng cay, tủi nhục. Đặc biệt trong giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX, đề tài này đã được thể hiện khá đặc sắc qua nhiều nhân vật. Nổi trội hơn cả là hiện tượng Mị trong “Vợ chồng A Phủ” của Tơ Hồi, nhân vật “Vợ nhặt” và bà cụ Tứ trong tác phẩm cùng tên của Kim Lân và nhà văn Nguyễn Minh Châu, với hình ảnh người đàn bà hàng chài qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. Mỗi nhân vật đều mang mỗi hoàn cảnh, số phận đáng thương nhưng ở họ vẫn toát lên những phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam.


Góp vào nền văn học nước nhà, Tơ Hồi với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Kim Lân với “Vợ nhặt” và tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu đã tơ đậm hơn hình tượng người phụ nữ. Những nhà văn này đã góp lên tiếng nói chung- tiếng nói nhân đạo đối với họ. Khơng những thể hiện sự quan tâm, thông cảm, đồng cảm với những số phận bất hạnh này mà những nhà văn còn trân trọng, ngợi ca những phẩm chất cao quý của người phụ nữ.

</div>

<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nhất cho những con người ấy là Mị, một nhân vật có số phân bi đát, đáng thương nhưng mang đầy phẩm chất tốt đẹp.


Mở đầu tác phẩm Tơ Hồi giới thiệu Mị là một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa “lúc nào cũng vậy dù thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay cõng nước dưới khe suối lên cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Đó là hình tượng con người nô lệ bị chà đạp. Nhưng Mị là ai?_ Cô là con dâu gạt nợ nhà Pá Tra, một số phận bất hạnh.

</div>

<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

mờ, trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Mị hầu như mất hết ý thức về bản thân và những mong muốn đổi thay cho số phận của mình, thậm chí Mị cũng khơng có cả ý thức về cái chết nữa.


Thật vậy, dường như sự rẻ rúng, tủi nhục là hằng số chung cho tất cả những người phụ nữ phải sống trong cái xã hội cổ hủ lúc bấy giờ. Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Đây là một thiên truyện ngắn đặc sắc với những tình huống độc đáo, hấp dẫn, mang đầy tinh thần nhân đạo. Tác phẩm “Vợ nhặt” được rút từ tập truyện ngắn “Con chó xấu xí”- một thành cơng đáng kể của Kim Lân.


Từ trước đến nay, đọc “Vợ nhặt”, chúng ta vẫn thường bàn nhiều hơn về hai mẹ con anh Tràng mà gần như ít chú ý đến cơ vợ nhặt. Thực ra, từ nhân vật này, nhà văn Kim Lân đã thể hiện được niềm thông cảm sâu sắc của mình trước số phận éo le của người phụ nữ. Ngay từ tựa đề của tác phẩm đã gợi lên sự chua xót, mỉa mai, một nỗi đau khơng thể nói thành lời. “Vợ nhặt” một hành động nghe sao đơn giản mà lại dễ dàng đến như vậy? Điều đó hồn tồn trái ngược với quan niệm của dân gian: “ Tậu trâu, lấy vợ, làm


nhà Trong ba việc ấy thật là khó thay” Vậy mà ở đây Tràng đã nhặt được vợ hẳn hoi.

</div>

<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

đáng q vốn có của người phụ nữ. Lần thứ hai gặp lại anh Tràng, thị “rách quá”, “quần áo tả tơi gầy xọp hẳn đi”. Khi được mời ăn, thị sà xuống “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, chẳng chuyện trị gì”. Cái đói đã đẩy lùi sĩ diện, nhân cách, và thị đã không băn khoăn theo Tràng về làm vợ chỉ với một ý nghĩ “cho khỏi đói” để sống cái đã. Xưa nay trong truyền thống đạo lí Việt Nam, chuyện tỏ tình vốn mang màu sắc tình tứ, duyên dáng, e lệ. Ấy thế mà giờ cũng chỉ trần trụi là câu chuyện lăn xả vào miếng ăn, để sau đó trở thành “vợ nhặt” của người đàn ơng xa lạ kia. Thế mới biết cái đói ghê gớm như thế nào!

</div>

<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

chị. “Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả cuộc đời mình: Giá tơi đẻ ít đi, hoặc chúng tơi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…” Cả cuộc đời người đàn bà ấy gói gọn trong nỗi lo đói khổ, lo miếng cơm manh áo hàng ngày. Bão táp biển khơi đã làm chai sạm, rỗ đi, thô kệch cái vẻ phụ nữ của chị. Nhưng còn đáng sợ hơn là bão táp từ những trận “đòn” hằng ngày vẫn đổ lên trên thân xác và tâm hồn chị. Vẻ bề ngoài và những cử chỉ của lão đàn ơng - chồng chị đã phơi ra ngồi tất cả những sự dữ dằn và khắc nghiệt của mình, “Tấm lưng rộng và cong như như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”. Ánh mắt ấy khiến cho người đọc luôn ám ảnh, đằng sau tất cả những khó khăn đè nặng, lão đàn ơng nhìn chằm chằm người đàn bà, nhìn vợ mình khơng phải như một điểm tựa u thương mà nhìn như một nguồn căn của mọi sự đau khổ, khốn khó đã đè nặng lên lão. Cái ánh mắt hằn học như muốn ăn tươi nuốt sống, trút hết mọi những oán hờn lên người phụ nữ


yếu đuối này. Ta hiểu, những khó khăn một phần đến từ đàn con nheo nhóc, nhưng


người phụ nữ ấy có tội gì đâu! Chị đã phải cong mình lên chịu đựng những bi kịch đời thường, chịu đựng những trần đòn roi như trước đây chị vẫn thường hay chịu. “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, mật độ dày đặc, những trận đòn vẫn như mưa đổ xuống. À ơi…! ai ru câu ca dao “thân em như tấm lụa đào à ơi…!” có làm cho chị cúi đầu nuốt dịng nước mắt đắng cay chua xót cho số phận của mình. Chị sinh ra cũng như bao người phụ nữ khác, có mạnh mẽ thì cũng chỉ là gồng mình gắng gượng, tâm hồn của chị vẫn thật yếu đuối mỏng manh. Ai nói rằng những giọt nước mắt của người đàn bà rơi xuống, nhưng bây giờ khơng phải chỉ vì những trận địn roi, mà một bàn tay nào đó đã bóp vụn trái tim và sự nhạy cảm trong tâm hồn con người ấy.Giữa xã hội phát triển đó vẫn cịn là một câu hỏi xót xa!

</div>

<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

những nỗi đau khổ, những bất công của xã hội, của cuộc sống đã đẩy cuộc đời họ vào những bế tắc cùng cực. Mà ở đấy, các nhà văn đã tô đậm lên tất cả đó là những vẻ đẹp phẩm chất thật đáng trọng- thứ ánh sáng đẹp đẽ của tâm hồn người phụ nữ. Bằng tình yêu cuộc sống, khát vọng được sống mãnh liệt và với những phẩm chất tốt đẹp vốn có của người phụ nữ họ đã vượt qua những rào cản, những bất công xã hội, vượt qua số phận bất hạnh để tìm đến hạnh phúc.


Như nhà văn Nguyễn Khải đã từng viết: “Sự sống nảy sinh trong cái chết, hạnh phúc hiện hữu từ trong những cái hi sinh gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy”. Và có lẽ đấy là dư âm vang sâu nhất trong tâm hồn mỗi độc giả khi đọc các tác phẩm “


Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, trẻ trung hồn nhiên và có tài thổi sáo cơ “uốn chiếc


lá trên mơi, thổi lá cũng hay như thổi sáo có bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi

</div>

<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

đó bằng một q trình phát triển tâm lí, hành động khá sâu sắc và hợp lý . Ngay sau khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí, Mị cầm nắm lá ngón về nhà lạy chào vĩnh biệt cha. Cô định tự tử vì ý thức được cuộc sống tủi nhục của mình và không chấp nhận cuộc sống ấy. Nhưng sự uất ức đến nỗi muốn chết ấy lại là một biểu hiện của lòng ham sống và khát vọng tự do, vì khơng muốn tiếp tục một cuộc sống đầy đoạ nên cơ đã tìm đến cái chết như một phương tiện giải thốt … nhưng rồi cơ lại khơng thể chết vì cịn đó món nợ truyền kiếp. Thương cha không muốn cha phải khổ và thế là Mị đành phải sống, sống mà như đã chết bởi “ở lâu trong cái khổ dần dần Mị cũng quen đi “. Chính lúc này, cơ gái lại càng đáng thương hơn, bởi muốn chết nghĩa là con người ấy còn ham sống, không chấp nhận một cuộc sống không xứng đáng nhưng phải sống tủi nhục đoạ đày và không còn ý nghĩ đến cái chết, nghĩa là sự ham sống của con ngưịi dường như đã khơng cịn nữa.


Tuy nhiên với tấm lịng nhân hậu đầy cảm thơng, nhà văn vẫn nhận ra rằng khát vọng hạnh phúc trong Mị có thể bị vùi lấp, lãng quên đâu đó nhưng khơng thể bị tiêu tan. Trong tâm hồn trẻ trung sớm bị chai sần vì đọa đày, đau khổ kia vẫn cịn âm ĩ đâu đó một ngọn lửa ham sống và chắc chắn nó sẽ bùng cháy mạnh mẽ hơn khi gặp những điều kiện thuận lợi. Và điều ấy đã đến, đó là vào một đêm tình mùa xuân trong ngày Tết. Năm ấy Tết dường như đến sớm hơn mọi năm, rất có khơng khí và tâm trạng, do đó , nó cũng khơi gợi sự sống hơn mọi năm . Khung cảnh tết năm ấy , có cái gì đó khác hẳn mọi cái tết khác ở Hồng Ngài : “Trên đầu núi , các nương ngô nương lúa đã gặt xong , ngô lúa đã xếp yên đầy các kho […] trong cá làng mèo đó , những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mõm đá xoè như con bướm sặc sỡ […]hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hau , đỏ thậm rồi chuyển sang màu tím ngắt …” Đặt biệt, cái khơng khí chờ đợi tết, những đứa trẻ con chơi bi, chơi quay, tiếng sáo gọi bạn yêu lơ lửng, tha thiết bồi hồi khi đêm về v.v... .Mị nghe tiếng sáo vọng lại tha thiết, bồi hồi, Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thối sáo “mày có con trai con gái / mày đi làm nương / ta khơng


có con trai con gái ta đi tìm người yêu …”

</div>

<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

sự sống mỗi lúc một rõ, một tha thiết. Thế là từ ngoại cảnh đã tác động đến cảm xúc,


tâm trạng và cuối cùng là hành động. Năm đó Mị đã uống rượu “uống ừng ực từng bát”


rồi say lịm người, cái say vừa gợi nhớ, vừa gây lãng quên. Nhớ những ngày còn con gái, nhớ những đêm xuân hò hẹn …và lãng quên thực tại. Mị nhìn, nghe mà khơng thấy, cuộc rượu tàn lúc nào không hay: “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đỏng người hát […] rượu đã tan lúc nào người về , người đi chơi đã vắng cả . Mị không biết Mị ngồi trơ một mình giữa nhà …”.Nhưng “lịng Mị đang nhớ về ngày trước tai Mị văng vẳng tiếng gọi bạn đầu làng”.Quá khứ dồn dập trở về rất sống động, rất rõ, thiết tha … nhưng quan trọng hơn là cái say đã mơ hồ nhớ rằng: Mị vẫn còn là một con người, Mị vẫn còn trẻ và cái quyền của một con người trong ngày tết. “Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng trở lại như những đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị muốn đi chơi, bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi tết huống chi , A sử với Mị khơng có lịng với nhau nhưng phải ở với nhau …” trong cái trạng thái nửa say, nửa tỉnh ấy, lại thêm sự thôi thúc của tiếng sáo réo rắt “gọi bạn yêu vẩn lơ lững bay ngoài đường anh ném pao, em không bắt/ em không yêu quả pao rơi rồi” đã dẫn Mị đến một hành động chưa từng thấy kể từ khi cô bước chân vào nhà thống lý Pá tra “cơ quấn lạ tóc và với tay lấy váy mới , chuẩn bị đi chơi”. Nhưng chính lúc yêu đời đang trỗi dậy mãnh liệt , tâm hồn cô đang phơi phới trở lại cũng là lúc Mị bị vùi dập phũ phàng .Vừa lúc A Sử về biết ý định của Mị ,hắn lấy dây trói nghiến cơ vào cột nhà rồi bỏ đi chơi . Suốt cái đêm đen tối bị trói đứng cái cột giữa nhà thống lí đó Mị hết thiếp đi rồi chợt tỉnh dậy, nhưng hình như cả đêm ấy, tiếng sáo dìu dặt của đám bạn trai vẫn đưa tâm hồn Mị sống lại những ngày đẹp đẽ ở quê nhà, tiếng sáo vẫn đưa cô đi theo những cuộc chơi của đám trai làng . Tâm hồn cô vẫn sống với khơng khí của ngày hội xn. Cơ định bước đi nhưng tay chân đã bị trói chặt cứng, không tài nào cựa quậy được. Những lúc ấy Mị bỗng ý thức được cảnh ngộ hiện tại của mình và trong lịng lại trào lên một nỗi đau sót, tủi nhục. Mị lại thổn thức, miên man nghĩ về thân phận không bằng con trâu, con ngựa của mình rồi dần thiếp đi .Gần sáng cơ bừng tỉnh, thử cựa quậy xem mình cịn sống hay đã chết, ý thức được sống lại trở về và trong lòng Mị lo sợ rằng nếu phải chết

</div>

<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Sau cái Tết ấy , những năm tháng nặng nề trong phân thận nô lệ tủi nhục của Mị tưởng

</div>

<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

khao khát được sống, và mong muốn được “sống cho ra sống” thật đáng quý của một


người phụ nữ không tên “vợ nhặt”.


Là một người đàn bà bị cái đói xơ đẩy đến cảnh ngộ thật éo le và thương tâm, phải rơi vào tình huống trở thành “vợ nhặt” nhưng chị không mất đi vẻ chất phát, thuần hậu của người phụ nữ lao động. Bị hồn cảnh xơ đẩy, dồn nén đến chỗ có nguy cơ bị chết đói


nên có lúc bên ngồi thành ra trâng tráo, trơ trẽn. Nhưng đó khơng phảỉ là bản chất vốn


có của chị phải đến lúc cùng đường, bị rơi vào tình thế phải theo khơng một nguời đàn ơng xa lạ thì bản chất con người thật của thị mới được bộc lộ rõ. Trên con đường theo Tràng về nhà, chị không khỏi cảm thấy ngượng ngùng xấu hổ, lòng chị vừa xấu hổ tủi nhục vì dẫu có là bước đường cùng chị không thể tránh khỏi cái tiếng xấu nhất đối với một người phụ nữ là “đàn bà theo giai”trong cái bối cảnh của một xã hội lạc hậu, còn đầy rẫy những định kiến nặng nề đó. Lo lắng phấp phổng vì khơng biết cái gì đang chờ đợi trước mặt. Liệu người đàn ông mà chị đánh liều theo khơng này có giúp được cho chị khỏi phải chết đói? Liệu người thân trong gia đình của anh có thơng cảm cho cảnh


ngộ và chấp nhận chị. Một biến cố cuộc đời đến quá bất ngờ khiến lịng chị khơng n


với bao tâm trạng lo âu. Do đó, bên cạnh dáng điệu phởn phơ tự đắc của tràng, vẻ e thẹn ngượng ngập của chị càng thêm nổi bật. Riêng cái cách đi đứng của chị cũng là dấu hiệu cho thấy đây là một người phụ nữ hiền thục, đoan trang, ý tứ … “người đàn bà đi sau hén chừng 3- 4 bước, thị cắp cái thúng con đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàn nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt, thị có vẻ rốn rén, e thẹn”

</div>

<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

lâu thế” “sắp đến chưa” “vẫn chưa đến à?” rồi “nhà có ai khơng ?” …Chị hỏi vào tình cảnh phải theo không Tràng cũng chẳng qua chỉ là bất đắt dĩ cần tìm một nơi nương tựa qua ngày, hi vọng có thể may ra tránh được sự chết đói. Nên khi tận mắt chứng kiến gia cảnh của Tràng chỉ là một cái nhà vắng teo, trên mảnh vườn mọc lỗn nhổn những bụi cỏ dại thì chị khơng nén nỗi một tiếng thở dài. Hoá ra cái gia cảnh của anh mới ban chiều còn vỗ vỗ vào túi khoe: “rich bo cu hả” là thế này đây. Nhưng chị còn biết sao được nữa, chị cảm thấy thất vọng, buồn tủi, chua sót quá nên mặt cho Tràng lăng săn đôn đả, “thị nhép mép cười nhạt nhẽo […], hai tay ôm khư khư cái thúng mặt bần thần. “Tại sao đứng giữa căn nhà của mẹ con Tràng rồi mà người phụ nữ kia vẫn ôm khư khư cái thúng thế?” Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng quá ư chật chội, chị phải biết để nó ở đâu? Hay vì giờ đây cái thúng là tài sản duy nhất chị có nên chị khơng thể xa rời.


Khơng tìm được sự no đủ nhưng dẫu sao, chị cũng bớt được một nổi lo trong dạ khi biết nhà tràng chỉ có một mẹ già. Dĩ nhiên, chị hiểu đấy là đỡ phức tạp, khả năng bị xua đuổi hắt hủi bị giảm xuống mức thấp nhất, mà đấy chẳng phải là một nửa sự sống đó sao? Cho nên lúc ấy chỉ đã có thể “tủm tỉm cười” rồi lại đùa với Tràng “đà mỗi một mình tơi lại cịn mấy u. Bé lắm đấy”. Và mặc dù vẫn còn rất buồn vì thất vọng chua chát, nhưng hầu như chị chẳng nói năng gì kể từ khi chứng kiến gia cảnh của mẹ con Tràng. Nhưng trước sự cảm thông, yêu thương đùm bọccủa những người xung quanh trong một mái ấm gia đình. Sáng hơm sau, chị đã săm sắn quét dọn cùng với mẹ chồng thu vén lại nhà cửa, vườn tược như một cô con dâu thực sự trong nhà. Và chính điều ấy đã đem đến cho chị những thay đổi đến nỗi chính Tràng cũng không khỏi ngạc nhiên “Tràng nôm thị hôm nay khác lắm. Rõ là người đàn bà hiền hậu đúng mực, khơng có vẻ gì chua chát như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh".


Đặc biệt là trong bữa ăn của một ngày mới, người nói đến “tồn chuyện vui chuyện


sung sướng về sau này “lại là bà cụ gần đất xa trời , con người nói đến đấu tranh “ phá


kho thóc của Nhật chia cho người đói lại chính là chị người vợ nhặt – nhân vật duy nhất


khơng có tên trong tác phẩm. Từng đồn người “những người nghèo đói ầm ầm kéo

</div>

<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

một dụng ý nghệ thuật , nhằm khẳng định khát vọng và sức sống manh mẽ của những con người như chị.


Trong tác phẩm này 1 nhân vật cũng được nhà văn dành nhiều trong miêu tả và có những thành công nổi bật là nhân vật bà cụ Tứ- mẹ của Tràng. Những gì đã diễn ra trong tấm lịng của một bà mẹ nghèo khó nhưng rất từng trải và giàu lòng nhân hậu này rất đúng để người đọc suy ngẫm. Xúc động cụ thể, hiểu hơn ai hết gia cảnh của mình


cùng cảnh ngộ của con trai bà trong những ngày đói kém hiện tại. Vì vậy, lúc đầu thấy


có một người đàn bà xa lạ đến nhà mình , lai gọi bằng “U”, bà hết sức ngạc nhiên. Sao lại gọi mình bằng u? Nhưng bằng kinh nghiệm và sự từng trải, qua thái độ rối rít như một đứa trẻ và những cô phân trần cắt nghĩa không mấy rành rẽ của con trai , bà đã hiểu ra tất cả cơ sự . Kim Lân đã khôn khéo chọn giọng điệu và ngôn ngữ nội tâm rất đáng với nhân vật để diễn tả tâm trạng của một bà lão nghèo khó, già cả nhưng vẫn cịn rất


nhạy cảm và từng trải “bà lão cúi đầu nín lặng” một sự nín lặng chứa đựng biết bao nổi


thương sót và trĩu nặng suy tư : bà lão hiểu rồi , lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự , vừa ai can sót thương cho số kiếp đứa con mình , chao ơi người ta dựng vợ gã chồng cho con là trong nhà lúc ăn nên làm ra , những mong sinh con mở mặt sau này cịn mình thì …Biết nó chúng nó có ni nổi nhau qua cơn đói khát này khơng". Đó là tâm lí thương thân tủi phận. Nhưng là sự thương thân tủi phận của một


người mẹ từng trải và giàu lòng nhân hậu, bởi trong cái ý nghĩ buồn tủi của bà còn chứa


đựng biết bao nhiêu tình thương và trách nhiệm. Do vậy mà nó ẩn chứa bao nổi lo lắng, dằn vặt , xót xa của tấm lịng người mẹ của tấm lịng người mẹ trước cảnh ngộ trớ trêu và đáng thương của đôi con trẻ trong những ngày đói khát trước mặt.Nhưng cụ tứ thương con vô bờ bến, bà cụ đã từ chỗ tủi cho tận mình, thương cho con mình, bà lão chuyển sang cảm thơng , thương xót cho người đàn bà xa lạ bỗng nhiên trở thành “vợ nhặt” con mình: “bà lão nhìn người đàn bà lịng đầy thương xót”.Tác giả đã diễn tả những ý nghĩ âm thầm , tủi cực mà đầy thông cảm của người đàn bà xa lạ ấy. “Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến


con mình, mà con mình mới được vợ …” Vậy là tình yêu thương con, yêu thương đồng

</div>

<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

con dâu sáng hôm sau, bà lão xăm xắn nhanh nhẹn khác hẳn ngày thường. Bà vui tươi


quét dọn cùng với cô con dâu bữa ăn đầu tiên của ngày. Người mẹ nhân hậu và từng trải muốn nhom nhén một niềm vui sống, niềm hi vọng mới giúp con người có thêm sức sống để vượt qua những khắc nghiệt của đói nghèo hiện tại, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Cái nhìn đầy cảm thơng, u thương của bà cụ tứ đối với con dâu hay đó cũng là cái nhìn đầy nhân đạo của Kim Lân đối với nhân vật người vợ nhặt” một số phận đáng thương, một tâm hồn đáng quý.“Dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng vẫn tin vào sự sống và hi vọng ở hiện tại, vẫn muốn sống, sống cho ra người”. Đó là nhân vật của Kim Lân!


Bước vào thế giới nhân vật của Nguyễn Minh Châu, ta sẽ bắt gặp hình ảnh người đàn


bà làng chài - là hiện thân cho mảnh đời tăm tối, cơ cực vẫn còn tồn tại trong cuộc sống


quanh ta qua truyện ngắn “chiếc thuyền ngồi xa”. Một cuộc sống gia đình với nạn bạo hành mà chị phải gánh chịu của người chồng vũ phu, tàn bạo: “Chẳng nói chẳng rằng, lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà , lão vừa đánh vừa thở hồng hộc hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn…”. Theo chị kể người chồng chị trước đây là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm khơng bao giờ đánh đập tơi”.Nhưng rồi việc trốn lính làm cho khuynh gia bại sản , rồi hoàn cảnh sống suốt ngay lênh đênh trên một con thuyền “ đám đàn bà trên thuyền đẻ nhiều con quá” vất vả cơ cực đã nhiễm vào người đàn ơng chài thói vũ phu: “bất kể lúc nào thấy mệt lại lôi tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…giá mà lão uống rượu…thì tơi cịn đỡ khổ”. Một sự nhẫn nhục cam chịu dường như quá sức đối với chị .Nhưng từ sâu thẳm tâm hồn, một sự thấu hiểu hiểu người và hiểu đời, một tình yêu thuỷ chung, son sắc, đáng thương. Để “nuôi đặng một sắp con” chị đã chịu đựng nhịn nhục một cách thật nhẫn nại đến mức khó hiểu, mặc cho chồng cứ đánh, cứ chửi “người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu lên một tiếng, chống trả, chạy trốn”. Chị càng không dám bỏ người chồng vũ phu, độc ác ấy với chỉ một lý do cũng rất đơn giản “cuộc mưu sinh khó nhọc, đầy bất trắc trên một chiếc thuyền chài lênh đênh sông nước

</div>

<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Và ở người đàn bà lam lũ khốn khổ đó, ta cũng nhận thấy le lói ánh sáng những hạt ngọc lấp lánh của tâm hồn còn khuất lấp trong cái u tối, cay cực của đời chị. Chị phải chấp nhận cuộc sống cay cực với mọi cực hình, chịu đựng sự đánh đập hàng ngày của chồng vì chị hiểu rất rõ hồn cảnh của mình, hiểu rõ cái khắc nghiệt của đời sống và hiểu rõ con người, chị không đồng ý ly hôn với người chồng vũ phu theo lời khuyên của Đẩu –viên chánh án tồ án huyện và nói với Đẩu “lòng các chú tốt nhưng các chú đâu hiểu được cái việc của những người làm ăn khó nhọc”. Chị hiểu nỗi bế tắc, khốn khổ của người chồng và hơn cả chị hiểu thiên chức làm mẹ của mình. Phải chăng cũng chỉ vì thiên chức đó mà chị phải xin chồng không đánh chị trên thuyền, trước mặt các con mà được bị đánh ở bãi xe tăng hỏng bên bờ biển. Chị không muốn đàn con đói khổ của chị bị tổn thương. Vì thế mặc cho thằng chồng vũ phu ra sức đánh đập, chị khơng hề kêu khóc , nhưng khi biết đứa con bé bỏng của mình chứng kiến người bố đánh mẹ


chúng thì chị “vơ cùng đau đớn và xấu hổ, nhục nhã” cứ hết ôm chầm lấy con chị lại


vái lấy vái để trước mặt nó. Đau đớn vì rốt cuộc,cái tình cảnh khốn nạn của chị vẫn không giấu nỗi các con không tránh được sự tổn thương trong tâm hồn, tình cảm của chúng. Xấu hổ và bất lực vì sự nhục nhã của mình , vì sự thật về cái tình cảnh khốn nạn của mình mà chị muốn giấu kín thì đã bị phơi bày ra hết .Và có lẻ cũng vì thiên chức đó mà chị chấp nhận tình trạng bị hành hạ, chấp nhận cả cuộc đời cay đắng và đen tối chỉ để mong có được niềm hạnh phúc thật bình dị, thật nhỏ nhoi: “cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tơi sống hịa thuận vui vẻ “hoặc”vui nhất là lúc nhìn đàn con tơi chúng nó đã căng no”…phải chăng ,đó chính là cái thứ ánh sáng lấp lánh của những hạt ngọc tình mẫu tử ,tấm lịng bao dung vị tha và đức hi sinh của những người phụ nữ lao động trong những mảnh đời còn nhiều cơ cực tăm tối quanh ta? Có điều , những hạt ngọc đó cịn q lấm láp và nhiều tì vết bởi nó cịn lẩn trong buồn đất, trong cát bụi của sự nghèo đói, lạc hậu, tối tăm …

</div><span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15></div><!--links-->