Chữ viết của các dân tộc thiểu số (DTTS) ở nước ta khá đa dạng, phong phú, xét về nguồn gốc, sự hình thành, và phát triển. Trong các DTTS ở nước ta, nhiều dân tộc đã có chữ viết, thậm chí một số dân tộc có nhiều hơn một hệ thống chữ viết. Một số hệ chữ viết có lịch sử trên dưới nghìn năm. Đó là các hệ chữ viết của các dân tộc Khmer, Thái, Chăm, Tày, Nùng, Dao... Chữ Thái cổ, Chăm cổ, Khmer dựa trên tự dạng Sanskrit. Chữ cổ của người Tày, Nùng, Cao Lan, Dao... thuộc dạng chữ vuông, bắt nguồn từ chữ Hán, có truyền thống vài thế kỷ. Nhiều hệ chữ viết khác, được chế tác gần đây, dựa trên tự dạng La-tinh. Có thể phân biệt chữ viết các DTTS ở nước ta thành hai loại: - Các hệ thống chữ viết cổ truyền: Đây là các hệ thống chữ viết đã có lịch sử nhiều thế kỷ, như chữ Hán, chữ Nôm Việt (còn gọi là "chữ Nho"), chữ Chăm cổ truyền, chữ Khmer, chữ Nôm Tày, Nôm Nùng, Nôm Dao, Nôm Sán Chí, chữ Lự, chữ Thái cổ... Đó có thể là chữ viết ghi ý, hoặc nửa ghi âm nửa ghi ý, gốc Trung Quốc có tự dạng Hán, hoặc là chữ ghi âm gốc Ấn Độ có tự dạng Sanskrit. - Các hệ thống chữ viết "mới" (còn gọi là các chữ viết từ dạng Latinh). Đây là các hệ thống chữ viết có lịch sử không dài, được chế tác trên cơ sở các ký hiệu của chữ La-tinh, có tự dạng La-tinh như chữ Quốc ngữ, chữ Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, Cơ Ho, Bru Vân Kiều, Tày - Nùng, Mường, Thái... Các hệ chữ viết tự dạng Latinh của các DTTS ở nước ta ra đời trong những thời kỳ khác nhau. Một số bộ chữ ra đời trước năm 1945 (Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, Cơ Ho) nhưng lại có hệ thống chữ La-tinh được chế tác sau năm 1960. Chữ viết các DTTS dùng để thực hiện vai trò tích cực trong việc làm nên những thành tựu văn hóa (chẳng hạn văn học nghệ thuật, các văn bản truyền thanh truyền hình và tất cả những sáng tạo được ghi bằng chữ) cũng như bảo tồn và phát triển chúng, bằng cách ghi lại cho người khác và các thế hệ kế tiếp nhau cùng đọc. Trong hoàn cảnh cụ thể của các DTTS ở Việt Nam hiện nay, chữ viết có vai trò như một phương tiện để tăng cường sự cố kết trong nội bộ một dân tộc và hướng về cội nguồn. Có thể xem chữ là một phương tiện để người ở các nơi khác nhau có được "tiếng nói chung". Chữ viết còn giúp cho thông tin tuyên truyền, cho việc chuyển tải các kiến thức khác nhau (trong đó có các kiến thức về chính ngôn ngữ các DTTS); tạo điều kiện (qua mặt chữ và các loại sách giáo dục) cho học sinh và cán bộ công chức, đồng bào thuộc các dân tộc khác nhau học tiếng, hiểu biết hơn về văn hóa các DTTS anh em. Tuy nhiên, có một thực tế lâu nay là một bộ phận người trẻ trong các DTTS không sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình, trong khi những người có vốn hiểu biết tiếng "mẹ đẻ" thì tuổi cao, lần lượt ra đi .Cho nên muốn bảo tồn, phát triển nó trong cộng đồng các DTTS, trước hết chữ viết các DTTS cần phản ánh (ghi) được đầy đủ các âm hoặc đại diện được cho ý muốn ghi lại hoặc truyền đạt... Để người các DTTS dễ dàng và nhanh chóng học theo cách "bắc cầu" từ tiếng DTTS sang tiếng Việt, từ chữ DTTS sang chữ Quốc ngữ, cũng như cán bộ, công chức, đồng bào thuộc các dân tộc khác dễ dàng, nhanh chóng học tiếng DTTS, đồng thời cũng dễ dàng cho các thầy cô, các hệ thống chữ cần phải gần gũi với chữ Quốc ngữ, nhưng tránh đi những bất hợp lý của chữ Quốc ngữ. Với những yêu cầu này, một câu hỏi cần được đặt ra: Vậy trong hoàn cảnh thực tế của Việt Nam hiện nay, nên truyền bá và sử dụng chữ viết của các DTTS dạng chữ cổ, hay là tự dạng La-tinh, hay cả hai? Theo chúng tôi, nên truyền bá và sử dụng các hệ thống chữ tự dạng Latinh, đồng thời có biện pháp bảo tồn các hệ thống chữ cổ truyền. Muốn vậy, cần có các cách dạy và học chữ các DTTS ở nước ta một cách phù hợp và hiệu quả; có thể theo một số mô hình sau: Mô hình thứ nhất:Học sinh DTTS lâu nay, theo chương trình giáo dục, sách giáo khoa... chung trong cả nước đều đang theo cách này: "đi thẳng vào tiếng phổ thông". Mô hình thứ hai:Dạy - học tiếng mẹ đẻ và bằng tiếng mẹ đẻ của học sinh trước, sau đó chuyển dần sang dạy - học tiếng Việt và bằng tiếng Việt, còn tiếng của học sinh lùi xuống vị trí là một môn học. Mô hình này đã được áp dụng vào những năm 60 của thế kỷ 20, ở cả miền bắc và miền nam. Ở miền bắc, cách này được thực hiện vào khoảng 1961 - 1968 ở một số vùng đồng bào người Mông, Tày, Nùng, Thái. Hiện nay ở Việt Nam, nó vẫn đang được "thử nghiệm" ở người Mông, Gia Rai và Khmer, với sự trợ giúp của tổ chức UNICEF, cho trẻ mẫu giáo và học sinh tiểu học, với tên gọi chương trình "Giáo dục song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ". Mô hình thứ ba:Bắt đầu dạy -học tiếng Việt và bằng tiếng Việt; tiếng mẹ đẻ của học sinh chỉ được dạy - học như một môn học (có thể ở giai đoạn bất kỳ trong từng cấp học). Mô hình này hiện cũng đang phổ biến ở Việt Nam. Ưu điểm nổi bật của nó là rất đơn giản về tổ chức và quản lý, không gây nên những xáo trộn đối với hệ thống giáo dục hiện thời, không đòi hỏi cao đối với giáo viên và học sinh, giống như lớp học dành cho những ai muốn học thêm một ngôn ngữ. Xét về nhiều phương diện, và trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, thiết nghĩ sẽ là thích hợp và có hiệu quả, nếu kiên trì áp dụng mô hình dạy - học tiếng nói, chữ viết các DTTS như một môn học. Với vai trò quan trọng của chữ viết trong đời sống xã hội ở vùng đồng bào các DTTS, cùng không ít những vấn đề đặt ra đối với chữ viết của họ, việc truyền bá và sử dụng chữ viết này, cần được chuẩn bị kỹ càng về mặt nhận thức cũng như tổ chức công tác, cùng những điều kiện vật chất để bảo đảm cho một bộ chữ sống và hoạt động. Các nhà ngôn ngữ học cần nghĩ đến việc biên soạn các sách công cụ như từ điển, ngữ pháp cơ bản và sách giáo khoa, các sách tham khảo bằng chữ DTTS hoặc song ngữ (truyện cổ tích, truyện thơ, dân ca, luật tục, các sáng tác mới...), để chữ viết có vai trò trong đời sống và thật sự trở thành trực quan với nhiều người, đồng thời được truyền bá và tạo nên động cơ cho người học, có điều kiện thực hành, cũng như chống tái mù chữ. Từ đó bảo tồn và phát triển chữ viết của các DTTS, phát huy chức năng tích cực của chúng trong đời sống xã hội. Nét độc đáo của di sản chữ viết trên lá Buông của người Khmer tại An Giang(ĐCSVN) – Kinh lá Buông mang đậm nét văn hóa tinh túy, độc đáo gắn liền với tôn giáo của người Khmer ở An Giang, là “báu vật” người xưa để lại.
“Báu vật” của người Khmer An Giang Tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá Buông của người Khmer An Giang là một loại tri thức dân gian, bên trong ẩn chứa một kho tàng vô giá của tri thức nhân loại đó chính là Kinh Phật. Kinh Phật được người Khmer viết trên lá của cây Buông, gọi là Kinh lá Buông (Xatra Slấkrít), đây là loại thư tịch cổ quý hiếm khắc chữ trên lá Buông, viết bằng tiếng Khmer cổ hay tiếng Bali (theo trường phái Thomanadut và Mahainikai) xuất hiện từ thế kỷ XIX. Kinh lá Buông thể hiện những giá trị về kỹ thuật, mỹ thuật, nghệ thuật cao của nghệ nhân Khmer, từ việc chọn lá, cách phơi lá, cách chế biến và sử dụng bột đen làm nổi bật các con chữ. Đây là những giá trị văn hóa phi vật thể, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào Khmer.
Kinh lá Buông có 4 loại gồm: Kinh Phật; Truyện cổ dân gian; Hội hè, trò chơi dân gian; Bài giáo huấn dân gian. Kinh Phật chạm khắc trên lá Buông là tài liệu quí, chứa đựng nhiều triết lý sống, nhân sinh quan theo tinh thần Phật giáo, Kinh thuyết pháp, thơ ca, sử thi, giáo lý của đức Phật răn dạy con người làm điều lành, lánh điều dữ, kinh đức Phật Thích Ca, Tam Tạng Kinh... Kinh chỉ được mở ra thuyết pháp vào những dịp quan trọng như lễ Phật Đản, lễ Kathina (lễ dâng bông, dâng y cà sa), lễ Thvai PresKhe (Cúng trăng), Lễ Dolta (Cúng ông bà),... Để có được bộ kinh lá buông hoàn chỉnh là quá trình công phu, nhiều tâm huyết. Trước tiên, phải chọn những chiếc lá buông đủ lớn, không bị rách mang về chùa. Sau đó, các sư mang lá đi phơi nắng cho đủ khô nhằm đảm bảo những bộ kinh không bị ẩm mốc. Khi đã có đủ số lá cho một bộ kinh, các sư bắt tay vào công đoạn viết chữ. Việc viết chữ trên lá, đúng hơn là khắc chữ trên lá; Đây là việc làm rất kỳ công. Nghệ nhân dùng một cây viết có ngòi bằng kim loại đầu nhọn gọi là đéc-cha chạm từ từ lên lá đã được phơi khô, khắc chạm trên lá phải đều tay, không được nhẹ quá vì nhẹ làm cho nét chữ không rõ, mạnh quá thì làm cho lá bị lủng lỗ, sản phẩm xem như hỏng. Người khắc chữ phải khéo léo, tỉ mỉ, phải biết rõ đường nét của chữ để không bị viết lệch ra ngoài đường viền hay hàng đã được khắc sẵn, vì chỉ sai một nét là phải bỏ đi lá đó không thể sửa lại được. Theo các vị sư trước đây, muốn khắc chạm được một bộ kinh lá thì nghệ nhân phải tìm một không gian yên tĩnh, tập trung cao độ và phải ở nơi đó cho đến khi hoàn thành mới thôi. Do đó, nghệ nhân viết kinh lá trước đây thường là các vị sư, vì chỉ các vị sư mới đạt trạng thái thiền định rất cao. Viết xong, người ta lấy bồ hóng trộn với dầu xoa lên rồi chùi cho mặt lá sạch sẽ, để chữ nổi lên. Cứ thế, người ta viết hết trang giấy lá này qua trang giấy lá tiếp theo, cho tới khi viết hết tài liệu đó thì xỏ lỗ “đóng” các trang viết thành một tập sách có bìa gỗ, thế là có một Satra hoàn chỉnh. Để tăng cường độ bền, nhất là làm cho sách đẹp đẽ quý giá, người ta lấy dung dịch nước bột vàng quét phủ lên gáy sách, bìa sách tựa sơn son thếp vàng. Mỗi bộ Kinh dày từ 5 - 8cm, nặng 300 - 600 gram. Mỗi bộ Kinh có từ 4 -10 cuốn (quyển); mỗi cuốn có 20 - 60 lá kinh; mỗi lá có 5 dòng, với khoảng 150 chữ. Kinh lá Buông chứa đựng giá trị về kỹ thuật, mỹ thuật, nghệ thuật và có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào dân tộc Khmer. Người Khmer tin tưởng nội dung thuyết pháp của Kinh lá Buông hơn so với Kinh sách thông thường, đây là di sản văn hóa đặc sắc độc đáo của đồng bào dân tộc Khmer và phật tử Phật giáo Nam Tông. Với những giá trị độc đáo, năm 2017, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã công nhận “Tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá Buông của người Khmer” là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Ứng dụng công nghệ số để bảo tồn di sản UBND tỉnh An Giang vừa phê duyệt Đề án "Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể Tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá Buông của người Khmer tỉnh An Giang đến năm 2030", nhằm có phương án bảo vệ và lưu truyền cho thế hệ sau những giá trị đặc sắc của di sản văn hóa phi vật thể tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá Buông của người Khmer, sự tham gia của người dân trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Theo Đề án, giai đoạn 1 từ năm 2022 - 2026, An Giang sẽ tập trung đánh giá, tập hợp, xác minh, phân loại và chỉnh lý phục hồi di sản; nghiên cứu và xác định chữ viết trên lá Buông là tiếng Bali cổ hay tiếng Khmer cổ; hướng dẫn phương pháp bảo quản, gìn giữ các bản chữ viết trên lá Buông. Giai đoạn này, tỉnh cũng sẽ tư liệu hóa và số hóa các di sản chữ viết trên lá Buông của người Khmer trên địa bàn An Giang; xây dựng mới các dị bản của một số bộ Kinh phục vụ cho công tác giáo dục di sản và phát triển du lịch; dịch thuật một số nội dung Kinh lá Buông; tăng cường việc quảng bá, phát huy di sản nhằm thu hút mọi nguồn lực của xã hội…. Giai đoạn 2 từ năm 2028 - 2033, An Giang xây dựng hồ sơ đăng ký công nhận di sản tư liệu tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá Buông của người Khmer ở tỉnh An Giang thuộc chương trình ký ức thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO. Theo đánh giá của UBND tỉnh An Giang, việc thực hiện đề án có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn các di sản văn hóa nói chung và di sản văn hóa phi vật thể nói riêng của An Giang; là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc kiểm kê, nhận diện, đánh giá thực trạng. Trên cơ sở đó, có thể áp dụng các biện pháp đề xuất nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản theo từng giai đoạn một cách hợp lý, khoa học. Minh An (T/H)
|