Hệ thống chính sách thuế ở Việt Nam hiện nay

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái vừa ký Quyết định số 508/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030.

Liên quan đến cải cách chính sách thuế, Quyết định số 508 nêu rõ, việc hoàn thiện đồng bộ hệ thống chính sách thuế của Việt Nam phù hợp với các tiêu chuẩn của hệ thống thuế theo thông lệ quốc tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu về nguồn lực để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030.

Các sắc thuế, phí, lệ phí chủ yếu bao gồm thuế giá trị gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế thu nhập cá nhân; thuế tài nguyên; thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; thuế bảo vệ môi trường; các khoản phí, lệ phí và thu khác thuộc ngân sách nhà nước.

Về quy mô thu ngân sách từ thuế, phí, bảo đảm duy trì tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước từ thuế, phí ở mức ổn định, hợp lý và phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từng giai đoạn 5 năm 2021 - 2025 và 2026 – 2030.

Giai đoạn đầu tập trung hỗ trợ doanh nghiệp, người dân khắc phục khó khăn, phục hồi sản xuất, kinh doanh do ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh Covid-19.

Đến năm 2025, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân không thấp hơn 16% GDP, trong đó, tỷ lệ huy động từ thuế, phí khoảng 13 - 14% GDP; tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách nhà nước phấn đấu đến năm 2025 đạt khoảng 85 - 86%.

Đến năm 2030, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước khoảng 16 - 17% GDP, trong đó, tỷ lệ huy động từ thuế, phí khoảng 14 - 15% GDP; tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách nhà nước phấn đấu đến năm 2030 đạt khoảng 86 - 87%.

TĂNG THUẾ THEO LỘ TRÌNH, BỔ SUNG THU THUẾ NHÀ

Đề cập đến giải pháp thực hiện Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030, về cải cách chính sách thuế, Quyết định số 508 chỉ rõ một số loại thuế sẽ tăng theo lộ trình và được bổ sung mới.

Theo đó, đối với các loại thuế liên quan đến tài sản, bao gồm cả thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, tiếp tục thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2025 để góp phần thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Hệ thống chính sách thuế ở Việt Nam hiện nay

Tổng kết, đánh giá tổng thể tình hình thực hiện chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.

Đồng thời, xây dựng chính sách thuế theo hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ xác định rõ đối tượng chịu thuế tài sản, số thuế phải nộp, đồng bộ với quy định của pháp luật về đất đai và quy định của pháp luật có liên quan.

Với thuế giá trị gia tăng, tiến tới cơ bản áp dụng một mức thuế suất.

Cụ thể, mở rộng cơ sở thuế thông qua giảm nhóm hàng hóa dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng và nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng áp dụng thuế suất 5%; tiến tới cơ bản áp dụng một mức thuế suất.

Nghiên cứu tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng theo lộ trình.

Rà soát điều chỉnh ngưỡng doanh thu áp dụng phương pháp khấu trừ cho phù hợp với thực tế. Nghiên cứu áp dụng thống nhất phương pháp tính thuế theo tỷ lệ % trên doanh thu đối với người nộp thuế có doanh thu dưới ngưỡng hoặc không đủ điều kiện áp dụng phương pháp khấu trừ.

Bên cạnh đó, hoàn thiện các quy định liên quan đến thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu, đảm bảo phản ánh đúng bản chất và phù hợp thông lệ quốc tế. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về khấu trừ thuế, hoàn thuế giá trị gia tăng theo hướng đơn giản, minh bạch và đồng bộ với các quy định của pháp luật có liên quan.

Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt, rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt để điều tiết tiêu dùng phù hợp với sự dịch chuyển về xu hướng tiêu dùng trong xã hội và định hướng của Đảng và Nhà nước về bảo vệ sức khỏe nhân dân và bảo vệ môi trường.

Xây dựng lộ trình điều chỉnh tăng thuế đối với các mặt hàng thuốc lá, bia, rượu để hạn chế sản xuất, tiêu dùng và thực hiện các cam kết quốc tế.

Rà soát điều chỉnh mức thuế tiêu thụ đặc biệt một số mặt hàng để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 – 2030. Nghiên cứu áp dụng kết hợp giữa thuế suất theo tỷ lệ và mức thuế tuyệt đối đối với một số hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

Đối với thuế bảo vệ môi trường, nghiên cứu mở rộng đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường đối với hàng hóa gây ô nhiễm môi trường.

Nghiên cứu để điều chỉnh khung và mức thuế bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo chính sách thuế bảo vệ môi trường là một công cụ kinh tế quan trọng góp phần hạn chế việc nhập khẩu, sản xuất và sử dụng hàng hóa gây ô nhiễm môi trường.

ƯU ĐÃI THUẾ VỚI NHIỀU ĐỐI TƯỢNG

Đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, tiếp tục thu gọn số lượng mức thuế suất để đơn giản biểu thuế nhập khẩu, phấn đấu đến năm 2025 số lượng mức thuế suất thuế nhập khẩu giảm từ 32 mức hiện nay xuống còn khoảng 25 mức vào năm 2025 và 20 mức vào năm 2030.

Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích gia tăng giá trị nội địa, hạn chế xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản thô.

Hệ thống chính sách thuế ở Việt Nam hiện nay
Đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, tiếp tục thu gọn số lượng mức thuế suất để đơn giản biểu thuế nhập khẩu

Có chính sách ưu đãi phù hợp để thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ và các lĩnh vực ưu tiên, đảm bảo phù hợp với các định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và các cam kết quốc tế.

Nghiên cứu sửa đổi các quy định về hàng hóa xuất khẩu tại chỗ, nhập khẩu tại chỗ và các quy định liên quan đến khu phi thuế quan, đảm bảo đồng bộ với quy định của pháp luật có liên quan, hạn chế gian lận thương mại, trốn thuế.

Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, Quyết định số 508 đề nghị, rà soát để sửa đổi hoặc bãi bỏ ưu đãi miễn, giảm thuế không còn phù hợp với yêu cầu phát triển, yêu cầu hội nhập quốc tế.

Hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội với chính sách miễn, giảm thuế, đảm bảo tính trung lập của thuế để áp dụng ổn định trong trung và dài hạn.

Thực hiện ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, đồng thời, chuyển trọng điểm chính sách thu hút đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế trong đầu tư vào những ngành, nghề mũi nhọn và những địa bàn cần khuyến khích đầu tư.

Mở rộng cơ sở thuế phù hợp bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước và thông lệ quốc tế; thực hiện các tiêu chuẩn phòng, chống chuyển giá, chống xói mòn nguồn thu theo thông lệ quốc tế.

Đối với thuế thu nhập cá nhân, rà soát bổ sung đối tượng chịu thuế.

Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng điều chỉnh số lượng và các mức thuế suất phù hợp với thu nhập chịu thuế phù hợp với bản chất của từng loại thu nhập, tạo điều kiện đơn giản trong quyết toán thuế thu nhập cá nhân cho cả người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế, ngăn chặn các hành vi trốn, tránh thuế.

Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về miễn, giảm thuế phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn và thông lệ quốc tế.

Đối với thuế tài nguyên, nghiên cứu sửa đổi quy định, giá tính thuế tài nguyên, sản lượng tài nguyên tính thuế.

Sửa đổi khung thuế, mức thuế và miễn, giảm thuế tài nguyên theo hướng minh bạch, rõ ràng, đảm bảo chính sách thuế tài nguyên tiếp tục là công cụ hữu hiệu để góp phần quản lý, bảo vệ tài nguyên, khuyến khích sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả, khuyến khích chế biến sâu, nâng cao giá trị tài nguyên.

Ngoài ra, đối với phí, lệ phí và thu khác thuộc ngân sách nhà nước, rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật phí và lệ phí theo hướng khai thác hiệu quả nguồn thu phí, lệ phí từ tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường.

Thực hiện lộ trình tăng mức thu phí nhằm từng bước tính đủ chi phí trong mức thu phí.

Đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ sự nghiệp công, khuyến khích thúc đẩy xã hội hóa cung cấp dịch vụ công.

Tăng cường thực hiện cải cách thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trực tuyến để tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, giải phóng nguồn lực của xã hội và góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Đồng thời đảm bảo phù hợp với chủ trương tổ chức, sắp xếp lại bộ máy cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp.

"Nghiên cứu xây dựng khoản thu hoặc thuế đối với các hoạt động, hình thức kinh doanh mới phù hợp với thực tế phát triển, đảm bảo quyền thu thuế, đánh thuế của Việt Nam phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn và theo thông lệ quốc tế",  Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 nêu rõ.

Bên cạnh đó, rà soát, hoàn thiện chính sách về thu khác thuộc ngân sách nhà nước bảo đảm phù hợp với thực tế và đồng bộ với pháp luật chuyên ngành.

Bối cảnh kinh tế xã hội trong 10 năm tới được dự báo có nhiều thay đổi và tác động không nhỏ đến việc triển khai thực hiện Chiến lược cải cách thuế. Đó là, Việt Nam vừa thoát khỏi danh sách các nước nghèo đồng nghĩa với việc giảm đáng kể các nguồn lực tài trợ từ bên ngoài, kể cả viện trợ cho phát triển nguồn nhân lực. Thực thi đầy đủ cam kết quốc tế song phương và đa phương, mở cửa hoàn toàn thị trường nội địa chắc chắn làm giảm đáng kể nguồn thu NSNN từ hàng hóa nhập khẩu, vừa tạo cơ hội nhưng cũng vừa tăng sức ép đối với việc cơ cấu lại các thu NSNN. Sự nóng dần lên của trái đất, biến đổi khí hậu, sự suy giảm các nguồn tài nguyên thiên nhiên,… là những yếu tố tác động không nhỏ đến nền kinh tế - xã hội của Việt Nam mà Chiến lược cải cách thuế không thể không tính đến.

Triển khai thực hiện Chiến lược cải cách thuế, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 2162/QĐ-BTC ngày 08/9/2011 phê duyệt Kế hoạch cải cách hệ thống thuế trong giai đoạn 2011-2015 và các đề án triển khai thực hiện Chiến lược cải cách thuế 2011 - 2020. Trong đó, Đề án cải cách thể chế giữ vai trò khá quan trọng, luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều tổ chức, cá nhân trong xã hội, đặc biệt là các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu hoạch định chính sách thuộc các cơ quan quản lý, các hiệp hội doanh nghiệp, các nhà tài trợ quốc tế,…

Trên cơ sở tiếp thu ý kiến trao đổi và phản biện của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia kinh tế và pháp luật tại hội thảo Vietnam Finance ngày 29 và 30/9/2011, Bài viết này đề cập đến những nội dung cơ bản trong định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế để thực hiện Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011 - 2020 của Việt Nam.  

Mục tiêu hoàn thiện pháp luật thuế 2011 - 2020

Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế cũng chính là nhằm thực hiện cho được mục tiêu của Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 10 năm tới, đó là: Xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước. Mục tiêu huy động thu NSNN trong 5 năm đầu (2011-2015) có thể duy trì ở tỷ lệ khoảng 23-24% GDP, trong đó tỷ lệ động viên từ thuế, phí và lệ phí khoảng 22-23% GDP; tốc độ tăng trưởng số thu thuế, phí và lệ phí bình quân hàng năm đạt từ 16-18%/năm. Trong 5 năm kế tiếp (2016-2020), tỷ lệ huy động thu NSNN và tỷ lệ động viên từ thuế, phí và lệ phí trên GDP ở mức hợp lý theo hướng giảm mức động viên về thuế trên một đơn vị hàng hoá, dịch vụ để khuyến khích cạnh tranh, tích tụ vốn cho sản xuất kinh doanh.

Hệ thống pháp luật thuế cần được hoàn thiện nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu: Xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao. Mục tiêu cụ thể được đề ra cho thời gian 5 năm đầu (2011 – 2015) là phải cắt giảm thời gian thực hiện thủ tục hành chính thuế để đến năm 2015 Việt Nam trở thành một trong 5 nước đứng đầu khu vực Đông Nam Á được xếp hạng có mức độ thuận lợi về thuế với các chỉ tiêu: Tối thiểu 60% doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ thuế điện tử; 50% doanh nghiệp đăng ký thuế, khai thuế qua mạng internet; 70% số người nộp thuế hài lòng với các dịch vụ mà cơ quan thuế cung cấp. Trong 5 năm tiếp theo (2016 – 2020), các chỉ tiêu này kỳ vọng sẽ đạt được ở mức cao hơn nữa.

Yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện chính sách, pháp luật thuế

Có khá nhiều yêu cầu được đặt ra đối với Đề án cải cách thể chế thuế trong giai đoạn 10 năm 2011 - 2020, trong đó những yêu cầu đáng chú ý nhất là:

- Hệ thống thuế phải bảo đảm thực hiện chính sách huy động hợp lý về thuế và phí nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư nhất là đầu tư áp dụng công nghệ cao, đầu tư vào các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.

- Hệ thống chính sách thuế phải có tác động tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo nhu cầu chi tiêu cần thiết hợp lý của ngân sách nhà nước.

- Hệ thống chính sách thuế phải được xây dựng, hoàn thiện bảo đảm minh bạch, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện. Mở rộng cơ sở tính thuế để phát triển nguồn thu đồng thời với việc giảm mức động viên trên mỗi đơn vị hàng hóa, mỗi đơn vị thu nhập sẽ tạo cơ hội để cơ cấu lại nguồn thu theo hướng tăng nguồn thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) đến năm 2015 đạt trên 70% tổng thu NSNN và trên 80% vào năm 2020.

Cải cách thể chế pháp luật thuế của chúng ta trong giai đoạn tới cần được tiến hành đồng bộ với cải cách các lĩnh vực tài chính như ngân sách nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính dân cư,... và đặt trong mối quan hệ hữu cơ của tiến trình cải cách thể chế trong những lĩnh vực có liên quan. Việc xác định tỷ lệ động viên thuế trên GDP cần phải tính đến thực tế của chúng ta hiện nay có những điểm khác biệt với các nước, đó là: (i) Ngân sách của chúng ta là một thể thống nhất, tổng hợp thu/chi của cả 4 cấp (Trung ương, tỉnh, huyện, xã), trong khi các nước thường công bố số liệu ngân sách quốc gia/trung ương ; (ii) Trong tổng thu ngân sách còn bao gồm cả nguồn thu từ dầu thô, tài nguyên thiên nhiên, thu tiền sử dụng đất, thu tiền cho thuê đất, tiền bán nhà thuộc sở hữu nhà nước, tiền viện trợ,...; (iii) Trong số liệu thu ngân sách còn có cả những khoản thu phí, lệ phí mà bản chất là giá dịch vụ công do khu vực nhà nước đảm nhiệm. Chúng ta cũng cần tính đến cách tổng hợp thống kê mức đóng góp của người dân ở các nước phát triển còn bao gồm cả thu bảo hiểm xã hội, đương nhiên hệ thống an sinh xã hội tại những nước này rất khác với hệ thống của chúng ta.  

Cơ cấu hệ thống chính sách thuế

Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011-2020 đã xác định rõ hệ thống thuế của Việt Nam trong giai đoạn này sẽ bao gồm các sắc thuế, phí và lệ phí chủ yếu sau đây: (1) Thuế giá trị gia tăng; (2) Thuế tiêu thụ đặc biệt; (3) Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; (4) Thuế thu nhập doanh nghiệp; (5) Thuế thu nhập cá nhân; (6) Thuế tài nguyên; (7) Thuế sử dụng đất nông nghiệp; (8) Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; (9) Thuế bảo vệ môi trường; (10) Các khoản phí và lệ phí.

So với giai đoạn 10 năm trước (2001 - 2010), Đề án cải cách thể chế thuế giai đoạn 2011 - 2020 xác định rõ hai nội dung nổi bật: (i) Chuyển thuế môn bài thành một khoản thu lệ phí quản lý hoạt động kinh doanh hàng năm; (ii) Hoàn thiện các chế độ chính sách thu NSNN từ tài nguyên, khoáng sản quốc gia như: thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thu về đấu giá quyền khai thác khoáng sản và thu từ dầu khí. Như vậy, có thể hiểu rằng một số khoản thu có thể được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ, bảo đảm sự phù hợp với Luật Ngân sách nhà nước, Luật Tổ chức Chính phủ và các đạo luật chuyên ngành trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước.

Nội dung cải cách thể chế thuế gián thu

Trong giai đoạn 10 năm tới, nền kinh tế Việt Nam cũng sẽ còn khoảng cách xa so với những nước dẫn đầu trong khu vực ASEAN, thu nhập quốc dân bình quân đầu người tuy có tăng trưởng khá nhưng việc huy động thuế và phí từ hoạt động kinh tế trong nước về cơ bản vẫn phải dựa vào các loại thuế gián thu. Vấn đề mang tính nguyên tắc trong việc sửa đổi, sắp xếp lại các loại thuế gián thu là việc động viên qua thuế gián thu phải xuất phát từ dự báo nhu cầu tiêu dùng xã hội, tập quán tiêu dùng của từng tầng lớp dân cư.

- Thuế giá trị gia tăng (VAT) được xác định là loại thuế cơ bản trong hệ thống thuế với phạm vi ảnh hưởng rộng, tác động đến mọi người dân, đặc biệt khi cơ cấu nền kinh tế được chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ thì cho dù không có sự điều chỉnh nào bản thân VAT cũng sẽ tăng lên cả về số thu và tỷ trọng trong tổng số thu. Chiến lược thuế 2011 - 2020 đề ra hướng sửa đổi VAT là: (i) Tiếp tục mở rộng cơ sở tính thuế thông qua việc giảm bớt số lượng nhóm hàng hoá dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng (thu hẹp danh mục mặt hàng miễn VAT); (ii) Thu hẹp dần danh mục mặt hàng hàng hoá, dịch vụ chịu thuế suất 5%, phấn đấu đến năm 2020 áp dụng thống nhất 01 mức thuế suất VAT (không kể mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu); (iii) Bổ sung các quy định cần thiết để áp dụng cơ chế thu VAT phù hợp với những loại hàng hoá, dịch vụ mới phát sinh theo sự phát triển của kinh tế thị trường; (iv) Cần thiết kế quy định về ngưỡng doanh thu áp dụng VAT, đồng thời chuyển dần các hộ kinh doanh, các DN quy mô nhỏ sang áp dụng phương pháp thu đơn giản theo tỷ lệ trên doanh thu.

- Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt (SCT), việc cải cách chính sách, thể chế trong giai đoạn 2011 - 2020 cần tập trung vào các nội dung: (i) Điều chỉnh, bổ sung đối tượng chịu SCT để hướng dẫn điều tiết tiêu dùng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội; (ii) Xây dựng lộ trình điều chỉnh thuế đối với các mặt hàng thuốc lá, bia, rượu, ôtô... để điều tiết tiêu dùng và thực hiện các cam kết quốc tế; (iii) Nghiên cứu, bổ sung quy định về giá tính thuế đối với những loại hàng hóa chịu thuế SCT do các công ty đa quốc gia tổ chức sản xuất hoặc phân công sản xuất, phân phối giữa các nước trong chuỗi sản xuất toàn cầu, bảo đảm điều tiết công bằng giữa hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước và hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu; và (iv) Nghiên cứu áp dụng kết hợp giữa thuế suất theo tỷ lệ và thuế suất tuyệt đối đối với một số hàng hóa, dịch vụ chịu thuế cần mức động viên thuế cao hơn.

- Cải cách chính sách, thể chế đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ tập trung vào các vấn đề : (i) Sửa đổi, bổ sung Biểu thuế xuất khẩu nhằm khuyến khích sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hạn chế xuất khẩu khoáng sản tài nguyên chưa qua chế biến, giảm hàng hóa gia công giá trị gia tăng thấp (ii) Trong phạm vi mức thuế “trần” đã cam kết, sửa đổi, bổ sung thuế nhập khẩu nhằm bảo hộ hợp lý, có thời hạn đối với một số hàng hoá sản xuất trong nước; (iii) Thu gọn số lượng mức thuế suất, từng bước đơn giản biểu thuế, mã số hàng hóa; (iv) Sửa đổi quy định về phương pháp tính thuế (bao gồm cả phương pháp tính thuế hỗn hợp, kết hợp thuế suất theo tỷ lệ phần trăm và thuế tuyệt đối); (v) Thực hiện đúng lộ trình điều chỉnh các mức thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo các Hiệp định mà Việt Nam là thành viên tham gia.

Nội dung cải cách thể chế chính sách thuế trực thu

Kinh nghiệm quốc tế đã cho thấy các loại thuế trực thu ngày càng có vị trí quan trọng bởi thu nhập của người dân tăng dần cùng với sự phát triển xã hội qua thời gian, tuy nhiên, trong từng giai đoạn cụ thể, nhiều khi cần phải điều chỉnh giảm tỷ lệ động viên để đạt được những mục tiêu quan trọng hơn tăng thu NSNN. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và thuế thu nhập cá nhân (TNCN) phải có sự gắn kết, bổ sung cho nhau và việc sửa đổi hai sắc thuế này cần tiến hành đồng thời, triển khai thực hiện cần đồng bộ, thống nhất về thời điểm.

- Đối với thuế TNDN, cải cách thể chế tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNDN theo hướng: (i) Điều chỉnh giảm mức thuế suất chung theo lộ trình phù hợp nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích luỹ để đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh; (ii) Đơn giản hoá chính sách ưu đãi thuế theo hướng thu hẹp danh sách lĩnh vực được ưu đãi thuế, sử dụng các ưu đãi thuế để khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, dịch vụ chất lượng cao, lĩnh vực xã hội hoá; khuyến khích đầu tư vào các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; bổ sung quy định về các khoản chi phí được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế; (iii) Bổ sung các quy định để bao quát được các hoạt động kinh tế mới phát sinh trong kinh tế thị trường hội nhập và phù hợp với thông lệ quốc tế như: Hoạt động bán hàng đa cấp, thương mại điện tử, sự phát triển của các tập đoàn kinh tế, hiện tượng “vốn mỏng” khi xác định chi phí, đặc biệt là chi phí lãi vay, điều chuyển hoặc đánh giá lại tài sản khi tái cơ cấu doanh nghiệp, thỏa thuận trước về giá của các doanh nghiệp liên kết. Cải cách thể chế thuế TNDN lần này cần phải tính đến chi phí và hiệu quả xã hội đối với từng chính sách cụ thể, chi phí mà người nộp thuế phải bỏ ra để tuân thủ pháp luật, chi phí mà cơ quan nhà nước phải bỏ ra để quản lý,... Việc xây dựng các chính sách ưu đãi để quy định trong luật cũng cần tính đến các hình thức đầu tư mở rộng mà không nhất thiết phải lập ra pháp nhân mới trong điều kiện việc mua bán, sáp nhập, thâu tóm DN trở nên phổ biến như là kết quả của cạnh tranh để phát triển.

- Cải cách thuế PIT tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNCN với những nội dung lớn: (i) Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng cơ sở thuế và xác định rõ các loại thu nhập chịu thuế; (ii) Sửa đổi, bổ sung phương pháp tính thuế đối với từng khoản thu nhập theo hướng đơn giản, phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo thuận lợi và khuyến khích người nộp thuế tự nguyện tuân thủ; (iii) Sửa đổi biểu thuế với số lượng bậc thuế suất, khoảng cách thu nhập giữa các bậc thuế suất hợp lý, phù hợp với thu nhập chịu thuế và đối tượng nộp thuế nhằm động viên, khuyến khích cá nhân làm giàu hợp pháp; (iv) Thống nhất, hài hòa mức thuế suất đối với các loại thu nhập có cùng tính chất, thu nhập từ những hoạt động tương tự đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế giữa thể nhân và pháp nhân (doanh nghiệp) cũng như tính tương quan giữa thuế TNDN và thuế TNCN.

Cải cách thể chế chính sách thu vào việc sử dụng tài nguyên, đất đai

- Luật thuế tài nguyên tuy mới được ban hành năm 2009, có hiệu lực từ tháng 7 năm 2010 nhưng trong giai đoạn tới cũng cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng thuế tài nguyên phải là công cụ hữu hiệu để góp phần quản lý, bảo vệ và thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, nhất là đối với tài nguyên không tái tạo. Mức thuế đánh vào tài nguyên phải đủ mạnh để có tác động thúc đẩy khai thác tài nguyên gắn liền với chế biến sâu và góp phần hạn chế tối đa xuất khẩu tài nguyên chưa qua chế biến. Các quy định về giá tính thuế, thuế suất, quy định về áp dụng các phương pháp quản lý thu,... cũng cần được điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn hoạt động khai thác tài nguyên theo từng giai đoạn.

- Tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản thuộc sở hữu toàn dân do đó cần phải có chính sách thu liên quan đến việc trao quyền thăm dò, khai thác tài nguyên, khoáng sản (không kể thuế tài nguyên đánh vào số lượng thực tế khai thác của mỗi loại tài nguyên). Trong giai đoạn 2011 – 2020 cần tập trung vào các việc: Nghiên cứu ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung chính sách thu NSNN liên quan đến hoạt động thăm dò, khai thác và sử dụng tài nguyên đảm bảo thống nhất, phù hợp với sửa đổi, bổ sung của Luật Dầu khí, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng sản, Luật bảo vệ và phát triển rừng... Chính sách thu này phải góp phần khuyến khích sử dụng tài nguyên có khả năng tái tạo, đồng thời góp phần hạn chế, điều tiết hợp lý việc khai thác, sử dụng tài nguyên không tái tạo; khuyến khích sử dụng sản phẩm thay thế tài nguyên thiên nhiên nhằm góp phần bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác tài nguyên.

- Đối với thuế sử dụng đất: Triển khai việc hướng dẫn và tổ chức thực hiện tốt chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đến năm 2020 theo Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24 tháng 11 năm 2010 của Quốc hội. Đồng thời, tổ chức hướng dẫn, triển khai thực hiện Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được Quốc hội thông qua năm 2010 (hiệu lực thi hành từ 01/01/2012). Quá trình thực hiện cần tiếp tục nghiên cứu để kịp thời có những hướng dẫn, điều chỉnh nhằm khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với việc sử dụng đất tại những vùng khó khăn, vùng nông thôn nhưng điều tiết mạnh hơn đối với những trường hợp sử dụng đất diện tích lớn không hợp lý, những trường hợp có tính chất đầu cơ. Nghiên cứu xây dựng chính sách thuế điều tiết với nhà, tài sản có giá trị lớn để ban hành vào thời điểm thích hợp, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của thị trường bất động sản có tổ chức, đảm bảo động viên nguồn thu hợp lý cho NSNN.

- Đối với các khoản thu liên quan đến quyền sử dụng đất: Quyền sử dụng đất vào các mục đích khác nhau do Luật đất đai quy định, với mỗi mục đích khác nhau, người sử dụng đất có được những lợi ích khác nhau và do vậy, NSNN có thể thu được những nguồn thu nhất định. Giai đoạn 2011 - 2020 cần sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật đối với các khoản thu từ đất đảm bảo thống nhất, phù hợp với sửa đổi, bổ sung của Luật Đất đai theo hướng: (i) Mức thu xác định theo mục đích sử dụng của đất; (ii) Chính sách thu phải có tác động góp phần hình thành thị trường bất động sản có tổ chức, quản lý hiệu quả; (iii) Mở rộng việc giao đất, cho thuê đất theo hình thức đấu giá thay cho cơ chế nhà nước cấp hoặc chỉ định; (iv) Chính sách thu và tổ chức thực hiện góp phần thực hiện chính sách quy hoạch của Nhà nước, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; (v) Áp dụng chính sách ưu đãi để khuyến khích đầu tư vào các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; khuyến khích doanh nghiệp và khu vực tư nhân tham gia đầu tư cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục, thể thao và bảo vệ môi trường.

Hoàn thiện thể chế đối với thuế bảo vệ môi trường

Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Luật thuế bảo vệ môi trường do Quốc hội mới ban hành (hiệu lực thi hành từ 01/01/2012) nhằm khuyến khích doanh nghiệp người dân có sự thay đổi về nhận thức và hành vi sử dụng, tiêu dùng sản phẩm góp phần bảo vệ môi trường, qua đó động viên nguồn thu cho NSNN. Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung đối tượng thu, điều chỉnh mức điều tiết nhằm góp phần hạn chế sử dụng những hàng hoá gây tác động xấu đến môi trường sinh thái cũng là một nhiệm vụ khá quan trọng trong giai đoạn 2011 - 2020.

Hoàn thiện thể chế đối với phí, lệ phí

Phí và lệ phí là những khoản thu gắn với việc cung cấp dịch vụ công, có liên quan và trong nhiều trường hợp chịu sự chi phối của cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước cũng như mức độ, hình thức tham gia của nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ công cho xã hội. Cùng với việc đẩy mạnh cải cách hành chính cần tiếp tục thực hiện cải cách tài chính công theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị sự nghiệp thụ hưởng ngân sách. Thực hiện chủ trương khuyến khích xã hội hóa dịch vụ công (chuyển giao việc cung cấp dịch vụ công cho khu vực doanh nghiệp và tư nhân) cũng đòi hỏi phải có sự thay đổi trong chính sách thu phí, lệ phí bởi đây chính là giá của dịch vụ công, lâu nay do các đơn vị thuộc khu vực nhà nước đảm trách. Hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực phí, lệ phí được dự báo sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức bởi nó đụng chạm đến quyền lợi, lợi ích cục bộ của từng ngành, từng lĩnh vực trong bối cảnh nhu cầu của xã hội đang đặt ra là người dân phải được thụ hưởng các dịch vụ có chất lượng ngày càng cao với mức giá hợp lý. Trong giai đoạn 2011 - 2020, nhiệm vụ quan trọng nhất trong cải cách thể chế đối với phí, lệ phí là trình ban hành mới Luật phí, lệ phí thay thế cho Pháp lệnh phí, lệ phí hiện hành; chuyển thuế môn bài thành lệ phí quản lý hoạt động kinh doanh hàng năm.

Bài viết dành cho Tạp chí eFinance, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các nhà khoa học, chuyên gia quản lý tại Hội thảo Vietnam Finance 2011 diễn ra tại Hà Nội ngày 29 - 30/9/2011)  

(Nguyễn Văn Phụng, Chuyên gia cao cấp - Phó vụ trưởng Chính sách thuế, Bộ Tài chính)