Hạt lửa đạn k54 ở vị trí nào của đạn năm 2024

Súng được nhà sáng chế Súng tự động lừng danh Fedor Tokarev thiết kế lần đầu tiên vào năm 1929, dự kiến thay thế cho súng ngắn tiền nhiệm Nagant M1895. Phiên bản chế thử cuối cùng được gọi là TT-30 đã vượt qua cuộc thử nghiệm quốc gia ngày 23 tháng 12 năm 1930 sau khi đã khắc phục một số nhược điểm.

Ngày 12 tháng 2 năm 1931, lô súng dùng thử đầu tiên gồm 1.000 khẩu được xuất xưởng và trang bị cho các cấp chỉ huy Liên Xô thử nghiệm đại trà. Năm 1933, cải tiến cuối cùng được thực hiện là việc dùng cơ cấu cò đẩy thay cho cơ cấu cò quay. Năm 1934, phiên bản TT-33 được Ủy ban Quốc phòng Nhà nước chấp nhận đưa vào sản xuất hàng loạt và trang bị cho Hồng Quân. Súng được sản xuất và sử dụng với số lượng lớn trong Chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 1950. Việc sản xuất ở Liên Xô dừng lại năm 1954 khi nó còn chưa kịp thay thế hết khẩu tiền nhiệm Nagant M1895. Khẩu Makarov ra đời năm 1951 đã thay khẩu TT-33 trong trang bị tiêu chuẩn cho sĩ quan chỉ huy Liên Xô.[cần dẫn nguồn]

Tuy vậy, ở nước ngoài, súng tiếp tục được sản xuất với số lượng lớn, kể cả sao chép hợp pháp và không. Trung Quốc có Type-51, Type-54, Hungary có khẩu M20, Tiệp Khắc có khẩu M-48, Ba Lan có khẩu TU-90, Nam Tư có các khẩu M57 và M70A. CHDCND Triều Tiên có Type-68 đều là các phiên bản hoặc sao chép nguyên dạng khẩu TT-33. Các phiên bản xuất khẩu cho Ai-Cập Tokagypt-58 dùng đạn có vỏ 9mm Parabellum. Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều đã sản xuất K-54 với số lượng lớn nhưng đến năm 1965, K-54 dần dần được thay bởi kiểu K-59 Makarov. Ở Việt Nam, việc sản xuất K-54 cũng chấm dứt vào năm 1990.[cần dẫn nguồn]

Hiện nay, chỉ còn Công ty Công nghiệp Hoa Bắc Trung Quốc vẫn sản xuất các phiên bản của súng TT-33 nhưng dùng đạn 9×19mm Parabellum, có tên mới là "Tokarev Kiểu 213". Súng có nhiều cải tiến ưu việt so với các phiên bản ban đầu. Các đường xẻ hẹp, súng mỏng, không cần tăng kích thước tay cầm để dùng đạn 9mm.[cần dẫn nguồn]

Khi xem qua các loại súng ngắn kiểu TT, dễ dàng nhận thấy rằng Fedor Tokarev đã bị ảnh hưởng bởi tác phẩm của John Moses Browning. Bên ngoài, nó gần giống với FN Model 1903. Bên trong, súng sử dụng cùng một hệ thống giảm độ giật ngắn được tìm thấy trong thiết kế súng lục năm 1911 của Browning. Ở các khu vực khác, TT-33 khác nhiều hơn so với các thiết kế của Browning - nó sử dụng tổ hợp búa/cò đơn giản hơn nhiều so với M1911. Cụm này có thể tháo rời khỏi súng lục dưới dạng một đơn vị mô-đun và bao gồm các môi nạp băng đạn được gia công, ngăn chặn việc nạp nhầm khi băng đạn bị hỏng được nạp vào băng đạn tốt Các kỹ sư Liên Xô đã thực hiện một số thay đổi để giúp sản xuất và bảo trì dễ dàng hơn, đáng chú ý nhất là việc đơn giản hóa các vấu khóa nòng, cho phép thực hiện ít bước gia công hơn.

Cấu tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Súng có cấu tạo vô cùng đơn giản, đáng tin cậy hơn nhiều so với kiểu lùi ngắn John Browning "FN Model 1903". Toàn bộ khẩu TT-33 được làm bằng thép tôi (trừ báng súng làm bằng gỗ hoặc nhựa). TT-33 không dùng một bulong hoặc đinh vít nào mà kết nối các bộ phận bằng các khe, rãnh, lẫy và chốt hãm.[cần dẫn nguồn]

Thân súng[sửa | sửa mã nguồn]

Làm bằng thép đúc liền gia công nguội, gồm khung báng để lắp ốp báng, hộp đạn và khung đẩy cò. Phía trước khung báng có khung cò để lắp cò súng gắn liền với khung cò. Phía trên khung cò là bệ trượt hình lòng máng để lắp nòng súng. Mặt trên thân súng có các khe xẻ ngang để lắp bệ búa đập, hai bên là rãnh dương dọc theo thân súng để lắp hộp khóa nòng.[cần dẫn nguồn]

Nòng súng[sửa | sửa mã nguồn]

Hình trụ rỗng hai đầu làm bằng thép tôi, lòng trong mạ Crom, có đường kính trong 7,62mm (tính theo khương tuyến âm). Trong nòng súng có 4 rãnh khương tuyến xoắn, bước xoắn 11mm. Cuối nòng súng có buồng đạn dài 25,1mm, đường kính 8,45mm để chứa vỏ đạn. Phía dưới buồng đạn có một chốt gập đục lỗ để kết nối với thân súng. Ở các phiên bản chế tạo sau năm 1947, nòng súng làm bằng hợp kim không gỉ.[cần dẫn nguồn]

Hộp khóa nòng[sửa | sửa mã nguồn]

Hay còn gọi là thanh trượt(slide) trong tiếng Anh,chứa và gắn liền với quy lát(bolt) để kéo quy lát lên đạn. Làm bằng thép đúc gia công nguội, phần đầu hình ống, phần sau hình chữ U. Trong hộp khóa nòng có các rãnh âm xẻ dọc để kết nối với thân súng, đầu khóa nòng có rãnh âm hở để cố định bao đầu nòng súng. Phía sau hộp khóa nòng có quy lát chứa kim hỏa và một lỗ đục ngang để chốt kim hỏa. Phần trên hộp khóa nòng có gắn đầu ngắm ở phía rước và bệ khe ngắm ở phía sau. Hai bên má ngoài phía sau của hộp khóa nòng có xẻ rãnh ngang để tăng ma sát khi dùng tay lên đạn. TT-33 sản xuất trước năm 1943 xẻ rãnh rộng và nông, TT-33 sản xuất từ năm 1943 có rãnh xẻ hẹp và sâu hơn.[cần dẫn nguồn]

Bao đầu nòng[sửa | sửa mã nguồn]

Khẩu TT-33 sản xuất trước năm 1943 (trái) và khẩu TT-33 sản xuất từ năm 1943 (phải)

Làm bằng thép đúc gia công nguội, hình vành khăn hai tấm, có hai lỗ để cố định nòng súng với hộp khóa nòng và cố định đầu lò xo đẩy về, có rãnh dương hở để cố định với hộp khóa nòng.[cần dẫn nguồn]

Lò xo đẩy về[sửa | sửa mã nguồn]

Có đường kính lớn hơn đường kính ngoài nòng súng 0,5mm, làm bằng thép tôi, dài hơn độ dài nòng súng từ 3 cm đến 4 cm.[cần dẫn nguồn]

Các chốt lò xo đẩy về[sửa | sửa mã nguồn]

Gồm chốt đầu hình tròn để kết nối với bao đầu nòng và chốt cuối hình nửa Oval để kết nối với hộp khóa nòng.[cần dẫn nguồn]

Cò và khung đẩy[sửa | sửa mã nguồn]

Cò súng làm bằng thép đúc, gia công nguội, hình trăng lưỡi liềm đậm nối liền với khung đẩy. Cò súng được lắp qua khe xẻ ở phần trước khung báng súng nối với khung cò.[cần dẫn nguồn]

Bệ búa[sửa | sửa mã nguồn]

Một khẩu K-54 đang hết đạn

Đây là phần cấu tạo phức tạp nhất của khẩu TT-33 nhưng hoàn toàn không dùng một bulon hay đinh vít nào. Nó gồm một khung búa có khe để kết nối cố định với thân súng. Bên trong chứa búa đập, lò xo búa hình trụ, lẫy búa và lò xo lẫy hình lá. Tất cả đều được kết nối với nhau bằng các trục chốt. Hai bên má và đỉnh của hộp khóa nòng sẽ giữ bệ búa cố định trên thân súng khi súng hết đạn.[cần dẫn nguồn]

Hộp tiếp đạn[sửa | sửa mã nguồn]

Hình hộp chữ nhật có tiết diện Oval dẹt, phía trong chứa lò do đẩy đạn hình xoắn ốc, chứa được một hàng 8 viên đạn tiêu chuẩn 7,62x25mm Tokarev. Tại góc trái của tấm mặt đẩy đạn có một lẫy nhỏ. Khi súng hết đạn, lẫy này tạo thành chốt chặn không cho khóa nòng trả về vị trí sẵn sàng bắn để báo cho người sử dụng biết súng đang hết đạn.[cần dẫn nguồn]

Báng súng[sửa | sửa mã nguồn]

Gồm hai tấm ốp đối diện nhau hai bên tay cầm phía dưới thân súng; thường làm bằng nhựa Bakelit đúc, có xẻ rãnh dọc để tăng độ bám cho bàn tay cầm súng; gắn với thân súng bằng then xoay phía trong. Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, một số lớn khẩu TT-33 có ốp báng súng bằng gỗ.[cần dẫn nguồn]

Đạn[sửa | sửa mã nguồn]

Súng TT-33 sử dụng đạn có vỏ 7,62x25mm Tokarev. Đạn 7,62x25mm Tokarev có nhiều chủng loại: đạn xuyên, đạn cháy, đạn vạch đường nhưng TT-33 chỉ sử dụng đạn xuyên và đạn vạch đường.

Chủ đề