Hàng xóm nguyễn du là ai

Hai câu thơ trên ở vị trí 3.247 và 3.248 trên tổng số 3.250 câu thơ trong Truyện Kiều, được Nguyễn Du dùng như lời kết chuyện; hẳn là ông có chủ ý. Đã có rất nhiều lời bàn về chữ Tâm như tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm Truyện Kiều, viết ra dễ đến cả ngàn trang sách, nhưng tôi tâm đắc với ý kiến của nhà nghiên cứu Trần Đình Sử. Theo ông luận giải, chữ Tâm này không hoàn toàn đồng nhất với chữ Tâm của nhà Phật, nơi đó là chân như, trong suốt, tĩnh tại, vô sai biệt, là phật tính. Chữ Tâm ở đây là sự gặp gỡ hai phương diện tương đồng của Phật giáo và Nho giáo, là lòng trắc ẩn, biết đồng cảm thương người, ý thức thị phi, phải trái, biết lễ nghĩa, biết điều khinh trọng, biết sỉ nhục, hổ thẹn, biết trung dung... Theo nhận thức của tôi, phải chữ Tâm ấy thì mới gấp ba lần chữ Tài được! Tuy thiện căn có sẵn trong lòng mỗi người, nhưng học được, theo được chữ Tâm của cụ Nguyễn Du thật khó lắm thay! Trước ý nghĩa sâu xa, thâm thúy của bậc tiền nhân, kẻ hậu sinh không dám lạm bàn, chỉ giới hạn suy nghĩ về chữ Tâm trong ứng xử hiện nay.

Nếu như theo được, hiểu được cái lẽ ấy, chắc hẳn những xung đột không chỉ trong những câu chuyện bé nhỏ đời thường mà ở cả tầm quốc gia, dân tộc, tôn giáo sẽ giảm đi nhiều.

Nhà văn B.N vốn nổi tiếng từ lâu trong thế hệ của mình. Sách của ông được nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế, được Hiệp hội dịch giả (Anh) bình chọn top 50 tác phẩm văn học nước ngoài dịch sang tiếng Anh hay nhất nửa thế kỷ qua. Cách đây không lâu, khi được đề cử vào một giải thưởng văn học lớn, ông khiêm tốn xin rút và chân thành nói, về chiến tranh còn nhiều người viết hay hơn mình nhiều, xin để dành ưu tiên cho các anh chị ấy trước. Ai cũng biết trong thế hệ của ông, ông là nhà văn biết về chiến tranh hạng nhất, vậy mà ông đã xin nhường. Chưa biết hội đồng giải thưởng có chấp nhận hay không, nhưng nghe chuyện này, phục Tài ông một thì phục Tâm của ông không chỉ có ba, mà nhiều lần hơn thế!

Trước đây ở thành phố Vinh có một quán cháo lươn rất nổi tiếng, khách bộ hành trên đường thiên lý thường ghé qua thưởng thức. Quán luôn đông khách, nhiều bận phải chờ mới có chỗ ngồi, trong khi những quán bên cạnh lại vắng hiu. Thế nhưng chủ quán chỉ bán nửa ngày, thời gian khác đóng cửa. Hỏi mới biết, họ nghỉ quán là để cho những quán kia cũng bán được hàng. “Con mình có cơm ăn rồi, cũng phải để cho con người khác có cháo ăn chứ, hàng xóm láng giềng với nhau cả...”.

Gặp lúc thong thả, ngồi hầu chuyện nhà văn Đỗ Chu, nghe ông kể, trong khu phố cổ Hà Nội, có hai nhà hàng xóm vì tranh chấp lối đi trong ngõ nhỏ mà thành đánh nhau to. Bị bên khỏe hơn vác gậy đuổi đánh, bên yếu không biết chạy đâu cho thoát, bí quá phải trốn vào nhà một cụ già neo đơn ở phía đối diện. Bên khỏe đang cơn tức giận, vừa thét chửi, vừa xông vào theo. Cụ già ngồi chặn bên ngoài cửa, ôn tồn nói: “Bác cho tôi xin, người ta đã đường cùng mới chạy vào nhà tôi, xin đừng truy bức nữa. Đã có người đánh thì cũng phải có người đỡ, hàng xóm láng giềng với nhau cả...”. Bên khỏe nghe lời, hạ hỏa. Nghe nói sau này họ ngồi lại với nhau, hòa giải, lại trở thành hàng xóm tốt. Ông Đỗ Chu kết luận: Văn hóa ứng xử của người Việt mình phải thế, cụ Nguyễn Du đã dạy từ mấy trăm năm trước rồi: Mà trong lẽ phải có người có ta. Tâm là ở đấy, lớn lắm!

Câu thơ này ở vị trí 3.114, cũng nằm trong đoạn cuối của Truyện Kiều, theo thiển ý của tôi là những câu quan trọng nhất thể hiện tư tưởng nhân văn, lòng vị tha, thấu hiểu đạo lý, giá trị trường tồn trong triết lý nhân sinh của Đại thi hào Nguyễn Du. Nếu như theo được, hiểu được cái lẽ ấy, chắc hẳn những xung đột không chỉ trong những câu chuyện bé nhỏ đời thường mà ở cả tầm quốc gia, dân tộc, tôn giáo sẽ giảm đi nhiều. Thay vào đó là đối thoại, sẻ chia, hòa giải, tìm kiếm những giải pháp chung cùng có lợi và cùng phát triển. Phải chăng đó mới là lẽ phải của tất cả mọi người mà cụ Nguyễn Du muốn nói? Thật muôn phần bội phục!

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 2

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 3

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 4

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 5

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 6

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 7

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 8

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 9

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 10

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 11

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 12

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 13

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 14

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 15

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 16

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 17

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 18

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 19

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 20

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 21

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 22

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 23

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 24

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 25

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM


Page 26

Có lẽ người Việt nào cũng từng quen thuộc với những câu lục bát tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Hàng xóm nguyễn du là ai

Đó là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng tràn đầy sức sống, cõi người cũng rộn ràng chen chúc lễ hội:

“Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

Mùa xuân trong cái nhìn của Nguyễn Du cũng còn có những sắc điệu khác, với cái nhìn u hoài, hư tĩnh, với những cảm nhận tinh tế về nhịp điệu chuyển vần của thời gian và đất trời. Dường như, mùa xuân đến với Nguyễn Du, trước hết chính là một biểu hiện cho vòng quay bất tận của thời gian:

“Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

Người đọc Nguyễn Du đã quen với cách nói “ngày xuân, tình xuân, đêm xuân, cành xuân,…” để ám chỉ đời người trong Truyện Kiều. Người đọc cũng chứng kiến tâm trạng ngậm ngùi và hoài cảm cùng với xuân trong thơ chữ Hán Tố Như. Có những mùa xuân lưu lạc tha hương, những mùa xuân lữ thứ nơi đất khách. Có những ngày đón xuân trong thiếu thốn và bệnh tật. Và có cả những tâm tư sâu thẳm trong lòng thi nhân khi chứng kiến bước chuyển mình của đất trời và những thiên di của đời người.

“Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt                                       ,

Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?                                       

Nam Phố thương tâm khan lục thảo                                       

Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai…”                                       

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Vẫn biết bước đi của tự nhiên là đông qua xuân tới, hạ về thu sang, nóng rồi lại lạnh, lạnh rồi đến nóng, thế mà tâm hồn nhạy cảm của thi nhân vẫn chợt hỏi một cách ngây thơ rằng không biết mùa xuân từ đâu đến. Năm đã trôi qua tự lúc nào mà ý xuân đã bừng nở trên những cánh mai vàng:

“Quanh năm khép cửa tránh thời

Xoay vần lạnh nóng tiết trời chuyển trao

Một năm đất khách nhường bao

Biết đâu Quỳnh Hải phương nào xuân sang?

Cỏ buồn Nam Phố xanh xanh

Chúa xuân điểm ý trên cành hoàng mai…”

Rồi bất chợt, trong thoáng chốc mùa xuân chợt đến bất ngờ ấy, là hình ảnh ông lão hàng xóm say sưa đi mãi ra tận ngôi miếu đầu thôn, quên mất đường về, dường như quên lãng cả thời gian:

“Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.”

“Quên về chuếnh choáng miệt mài

Cụ hàng xóm đã say ngoài đầu thôn.”

(Xuân nhật ngẫu hứng)                                                                                  

Cơn say của ông lão hàng xóm trong mùa xuân ấy là một hình ảnh bình dị mà Nguyễn Du đã để lại trong bài thơ “ngẫu hứng ngày xuân” của mình. Bởi lẽ nhắc đến mùa xuân không thể không nhắc đến rượu. Hơn nữa, trong những ngày xuân say tràn trề với nỗi đau đời và cô độc, thi nhân càng cảm nhận rõ rệt bước đi của thời gian:

“Phù tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số há thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,                                       

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?                                       

Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,                                       

Niên quang ám trục bạch đầu lai…”                                       

(Đối tửu)

Thi nhân mở đôi mắt còn trong cơn say của mình nhìn lớp lớp hoa rơi trên thềm rêu xanh. Thi nhân dường như mong rằng mình có thể cứ uống mãi và say mãi. Nhưng cái say này là cái say rất tỉnh. Bằng đôi mắt say, nhà thơ nhìn thấy cuộc đời, nhìn thấy cả sự biến đổi của thời gian:

“Bên song bừng mắt rượu say,

Mang mang hoa rụng đã dày rêu xanh.

Giữa đời quên rượu trong bình,

Dưới mồ ai kẻ nhớ mình nâng ly.

Xuân qua hoàng điểu bay đi,

Tháng năm đưa đẩy đến thì tóc phai...”

Lúc này không uống cho say thì chết rồi biết có kẻ nào đến mà rưới rượu lên mồ. Tuy là một cách nói ngông nghênh và bất cần nhưng cũng không khỏi gợi lên chút buồn dự cảm về số phận cô độc. Mà đó phải chăng là cách nhà thơ muốn nói, đời người ngắn ngủi, tháng năm trôi qua trong thoáng chốc, phải biết trân trọng và biết sống những ngày tháng của nhân gian.

Cuộc đời trải qua những ngày lữ thứ nơi đất khách, nhìn thấy vẻ đẹp mùa xuân rạng rỡ qua ánh trăng Thượng nguyên đang tỏa sáng giữa trời, nhà thơ không khỏi chạnh lòng. Vẫn biết là trời đất rất đẹp, trăng rất đẹp như muôn đời vẫn thế, vẫn biết rằng có những gia đình đang sống hạnh phúc, yên bình giữa tiết xuân mới mẻ.

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,                                       

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.”                                       

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)                                                                                  

Cám cảnh mình là một người bơ vơ, lang thang góc bể chân trời, sống nơi đất khách, thi nhân tự hỏi ánh trăng xuân rạng ngời đẹp tươi khắp đất trời ấy sẽ soi chiếu vào vào nhà ai?

“Rằm xuân sân vắng nguyệt làu làu,

Nét cũ thiền quyên chẳng đổi màu.

Xuân hứng nhà ai tràn đổ trút

Đêm này tỏa rạng trọn Quỳnh Châu.”

Hỏi là hỏi vậy, nhưng trong tâm hồn nhà thơ, cái đẹp vẫn là điều trân quý. Ánh trăng soi giữa trời kia cũng soi vào tâm hồn thi nhân. Đối với thi nhân, vầng trăng là người bạn tri âm, gặp gỡ nhau trong cảnh xa xôi luân lạc: “Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến.” (Ở bước đường cùng, ta và trăng thương cảm nhìn nhau).

Tuy vậy, cảnh nghèo, khổ sở và vất vả ở nơi đất khách, cũng không ngăn cản nhà thơ nhận ra rằng một mùa xuân mới lại vừa đến:

“Trì thảo vị lan thiên lý mộng,

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

 … Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

 Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.”

(Xuân tiêu lữ thứ)                                      

Ở nơi đất khách, Nguyễn Du không nguôi nhớ thương về các anh em xa cách của mình, thời gian trôi qua, hoa mai trước sân đã báo tin xuân. Giữa đất trời chuyển mình đầy mới mẻ, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ:

“Mộng ngàn dặm vẫn chưa tan,

Trước sân mai thắm vô ngần tân xuân.

… Người buồn xuân cứ đẹp tươi,

Đẫm khăn ai thấm lệ rơi dưới thành.”

(Đêm xuân quán khách)                                                                                  

Rồi cũng có những mùa xuân không có giọt rượu nào để đón cảnh “Thanh minh trong tiết tháng ba”, thi nhân tự buồn thương cho chính mình:

“Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự bi thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

Đêm ngày gió thổi động giang thành,

Người tự buồn thương, cỏ tự xanh.

Xuân tiết chiếc thân đâu trẻ tráng,

Chân trời không rượu đón thanh minh.”

(Ngẫu hứng ngày Thanh minh)

Những đêm xuân nằm bệnh nơi đất khách, cũng là nỗi đau mà nhà thơ từng trải qua:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm                                       

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.                                       

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,                                       

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.”                                       

                                     (Xuân dạ)                                     

“Đêm đen ánh sáng tìm đâu,

Ngỏ song bóng liễu thâm u phủ màu.

Giang hồ mang bệnh đã lâu,

Xuân nương mưa gió đêm sâu đằm đằm.”

(Đêm xuân)                                     

Dù trải qua những ngày xuân như thế nào, đau buồn, bệnh tật, nghèo đói, luân lạc thì tâm hồn thi nhân vẫn không khỏi bị mùa xuân lôi cuốn. Vẫn không khỏi có lúc thốt lên rằng:

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch xuân quang thù khả liên.”

              (Mộ xuân mạn hứng)

“Xuân sắc một năm chín chục ngày,

Xuân quang phung phí đáng thương thay.”

     (Cảm hứng lan man cuối xuân)

Đó là nỗi tiếc nuối thời gian, khi mỗi năm cũng chỉ có chín mươi ngày xuân mà thôi. Phải chăng cảm thức về thời gian và sự tàn phai của đời người ngay trong những ngày xuân sắc chính là suy tư của chính tâm hồn thi nhân.

Bởi thi nhân là những người nhạy cảm với thời gian, với biến thiên nhiều nhất, dù là xuân, hạ hay thu, đông.

Theo Nguyễn Ngọc Bảo Trâm/Khoa Văn học ngôn ngữ - ĐHKHXH&NV TP HCM