Giá trị hành hoá sức lao động là gì

123doc-tai-lieu-tham-khao-dap-an-thi-olympic-cac-mon-khoa-hoc-mac-len-nin-phan-3-mon-kinh-te-chinh-tri-trac-nghiem-va-tu-luan

  • Phân tích cạnh tranh giữa Coca và Pepsi
  • PLT08A15-Phạm Ngọc Anh-24A4022778
  • giáo trình kinh tế chính trị Mác Lênin
  • PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM. NÊU GIẢI PHÁP VIỆT NAM CẦN THỰC HIỆN ĐỂ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
  • PLT08A02 - Nguyễn Thị Đảm Hương - 23A4040055
  • Bài tập lớn Kinh tế chính trị, HVNH
  • tiểu luận kinh tế chính trị mác lênin .........

Preview text

HỌC VIỆN NGÂN HÀNGKHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Học phần: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN

ĐỀ TÀI : PHÂN TÍCH HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG.

NÊU GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT BÀI TOÁN THẤT

NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn : Phạm Thị Nguyệt

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thùy Dung

Lớp : K23CLC-QTA

Mã sinh viên : 23A

Hà nội, ngày 12 tháng 6 năm 202 1

MỤC LỤC

  • LỜI MỞ ĐẦU
  • VẤN ĐỀ THẤT NGHIỆP CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG VÀ
    • I. LÝ LUẬN VỀ HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG
      • 1. Khái niệm sức lao động và hàng hóa sức lao động là gì?
      • 1. Hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt
    • II. LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ THẤT NGHIỆP
      • 1. Các khái niệm liên quan đến thất nghiệp
      • 1. Phân loại thất nghiệp
      • 1. Tỉ lệ thất nghiệp..........................................................................................
  • NAM............................................................................................................................ CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ THẤT NGHIỆP Ở VIỆT
    • I. TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
      • Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam năm
    • II. NGUYÊN NHÂN THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM
    • III. ẢNH HƯỞNG CỦA THẤT NGHIỆP
      • 1. Lợi ích của thất nghiệp
      • 1. Tác hại
  • CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CỦA VẤN ĐỀ THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM
    • 1. Hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp theo lý thuyết
    • 1. Kích cầu.
    • 1. Tạo mọi điều kiện cho lao động mất việc.
    • 1. Hoàn thiện hệ thống bảo hiểm thất nghiệp.
    • 1. Những biện pháp khác
  • KẾT LUẬN
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG VÀ VẤN ĐỀ THẤT NGHIỆP

I. LÝ LUẬN VỀ HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG

1. Khái niệm sức lao động và hàng hóa sức lao động là gì?

1. Khái niệm sức lao động Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con người, nó được vận dụng vào quá trình lao động sản xuất. Theo Wikipedia, sức lao động là một khái niệm trọng yếu trong kinh tế chính trị Mác-xít. Mác định nghĩa sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất, trí tuệ và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó. Sức lao động là khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Nhưng sức lao động mới chỉ là khả năng lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực. 1. Hàng hóa sức lao động là gì? Những điều kiện biến sức lao động thành hàng hoá

  • Những điều kiện biến sức lao động thành hàng hoá Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố hàng đầu của quá trình lao động sản xuất. Nhưng không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá. Sức lao động chỉ biến thành hàng hoá khi có hai điều kiện sau: Một là người lao động phải được tự do về thân thể, do đó có khả năng chi phối sức lao động của mình. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá, nếu nó do bản con người có sức lao động đưa ra bán. Muốn vậy, người có sức lao động phải có quyền sở hữu năng lực của mình. Việc biến sức lao động thành hàng hoá đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu nô và chế độ phong kiến. Hai là người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất không thể tự tiến hành lao động sản xuất. Chỉ trong điều kiện ấy, người lao động mới buộc phải bán sức lao động của mình, vì không còn cách nào khác để sinh sống. Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu đẫn đến chỗ sức lao động biến thành hàng hoá.
  • Hàng hóa sức lao động là gì?

Dưới chủ nghĩa tư bản, đã xuất hiện đầy đủ hai điều kiện đó. Một mặt, cách mạng tư sản đã giải phóng người lao động khỏi sự lệ thuộc về thân thể vào chủ nô và chúa phong kiến. Mặt khác, do tác động của quy luật giá trị và các biện pháp tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản đã làm phá sản những người sản xuất nhỏ, biến họ trở thành vô sản và tập trung tư liệu sản xuất vào trong tay một số ít người. Việc mua bán sức lao động được thực hiện dưới hình thức thuê mướn. Quan hệ làm thuê đã tồn tại khá lâu trước chủ nghĩa tư bản, nhưng không phổ biến và chủ yếu được sử dụng trong việc phục vụ nhà nước và quốc phòng. Chỉ đến chủ nghĩa tư bản nó mới trở nên phổ biến, thành hệ thống tổ chức cơ bản của toàn bộ nền sản xuất xã hội. Sự cưỡng bức phi kinh tế được thay thế bằng hợp đồng của những người chủ sở hữu hàng hoá, bình đẳng với nhau trên cơ sở “thuận mua, vừa bán”. Điều đó đã tạo ra khả năng khách quan cho sự phát triển tự do cá nhân của các công dân và đánh dấu một trình độ mới trong sự phát triển tự do cá nhân của các công dân và đánh dấu một trình độ mới trong sự phát triển của văn minh nhân loại. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện chủ yếu quyết định sự chuyển hoá tiền thành tư bản.

2. Hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt

Cũng như mọi hàng hoá khác, hàng hoá - sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. 2. Giá trị hàng hoá sức lao động Giá trị hàng hoá sức lao động cũng giống như các hàng hoá khác được quy định bởi số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Nhưng, sức lao động chỉ tồn tại trong cơ thể sống của con người. Để sản xuất và tái sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một số lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Như vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra sức lao động sẽ quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy, hay nói một cách khác, số lượng giá trị sức lao động được xác định bằng số lượng giá trị những tư liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống của người có sức lao động ở trạng thái bình thường. Khác với hàng hoá thông thường, giá trị hàng hoá sức lao động bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.

Thứ nhất, sự khác biệt của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động so với giá trị sử dụng của các hàng hoá khác là ở chỗ, khi tiêu dùng hàng hoá sức lao động, nó tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của thân giá trị sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư. Như vậy, hàng hoá sức lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động so với các hàng hoá khác. Nó là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Như vậy, tiền chỉ thành tư bản khi sức lao động trở thành hàng hoá. Thứ hai, con người là chủ thể của hàng hoá sức lao động vì vậy, việc cung ứng sức lao động phụ thuộc vào những đặc điểm về tâm lý, kinh tế, xã hội của người lao động. Đối với hầu hết các thị trường khác thì cầu phụ thuộc vào con người với những đặc điểm của họ, nhưng đối với thị trường lao động thì con người lại có ảnh hưởng quyết định tới cung.

II. LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ THẤT NGHIỆP

1. Các khái niệm liên quan đến thất nghiệp

Những người trong độ tuổi lao động là những người ở trong độ tuổi có nghĩa vụ và quyền lợi lao động ghi trong Hiến pháp. Lực lượng lao động là số người trong độ tuổi lao động đang có việc làm hoặc chưa có việc làm nhưng đang tìm việc làm. Người có việc là những người đang làm cho những cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hôi,... Người thất nghiệp là người hiện đang chưa có việc làm nhưng mong muốn và đang tìm việc làm. Ngoài những người có việc và thất nghiệp, những người còn lại trong độ tuổi lao động được coi là những người không nằm trong lực lượng lao động, bao gồm người đi học, nội trợ gia đình, những người không có khả năng lao động do ốm đau bệnh tật,... và một bộ phận không muốn tìm kiếm việc làm với những lí do khác nhau.

2. Phân loại thất nghiệp
  • Theo nguồn gốc thất nghiệp Thất nghiệp tạm thời : xảy ra khi có một số người lao động trong thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn, phù hợp với ý muốn riêng, hoặc những người mới bước vào thị trường lao động đang tìm kiếm việc làm hoặc chờ đợi đi làm...

Một xã hội trong bất kỳ thời điểm nào đều tồn tại loại thất nghiệp này. Chỉ có sự khác nhau về quy mô số lượng và thời gian thất nghiệp. Thất nghiệp cơ cấu : xảy ra khi có sự mất cân đối cung cầu giữa các thị trường lao động (giữa các ngành nghề, khu vực,... ) loại này gắn liền với sự biến động cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh cung của các thị trường lao động. Khi sự lao động này là mạnh và kéo dài, nạn thất nghiệp trở nên trầm trọng và chuyển sang thất nghiệp dài hạn. Thất nghiệp do thiếu cầu : Do sự suy giảm tổng cầu. Loại này còn được gọi là thất nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn liền với thơì kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh, xảy ra ở khắp mọi nơi mọi ngành mọi nghề. Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường : Nó xảy ra khi tiền lương được ấn định không bởi các lực lượng thị trường và cao hơn mức cân bằng thực tế của thị trường lao động.

  • Theo sự tự nguyện Thất nghiệp tự nguyện là 1 bộ phận người lao động không làm việc do việc làm và mức lương không phù hợp với mong muốn của họ. Thất nghiệp không tự nguyện là bộ phận người không có việc làm mặc dù đã chấp nhận làm việc với mức lương hiện tại.
3. Tỉ lệ thất nghiệp..........................................................................................

Tỉ lệ thất nghiệp là tỉ lệ phần trăm số người thất nghiệp so với tổng số người trong lực lượng lao động. Tỉ lệ thất nghiệp là một chỉ tiêu phản ánh khái quát tình trạng

1. Lợi ích của thất nghiệp

CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM

I. TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

GẦN ĐÂY

Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam năm

Dịch Covid-19 xuất hiện từ cuối tháng 01/2020 đã gây tác động lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp và việc làm của người lao động, khiến tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm tăng lên. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao

thấp. Lao động có việc làm giảm so với quý trước và cùng kỳ năm trước, giảm chủ yếu ở khu vực nông thôn. Tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm và tỷ lệ thanh niên không đi học và không đi làm có xu hướng tăng. Thu nhập của người lao động tăng nhưng tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước sụt giảm đáng kể. Theo kết quả điều tra doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 và báo cáo đánh giá của các địa phương về tình hình lao động việc làm, tính đến giữa tháng 4 năm 2020, có gần 5 triệu lao động bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bị ảnh hưởng nhiều nhất (1,2 triệu lao động), tiếp theo là ngành bán buôn, bán lẻ (1,1 triệu lao động), ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống (740 lao động). Trong số này, 59% là tạm nghỉ việc, 28% là giãn việc hoặc nghỉ luân phiên, và 13% là mất việc. Có khoảng 84% doanh nghiệp được khảo sát cho biết gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Trong đó, doanh nghiệp quy mô lớn và quy mô vừa chịu tổn thương nhiều hơn với tỷ lệ 90% tự đánh giá gặp khó khăn trong 4 tháng đầu năm. Các dự báo cũng cho thấy, với tác động của dịch bệnh đến tình hình sản xuất kinh doanh và người lao động, các khó khăn vẫn có thể sẽ còn tiếp diễn trong thời gian tới. Thực tế cho thấy, diễn biến của Covid-19 trên thế giới vẫn đang tác động tiêu cực đến sản xuất và thương mại toàn cầu dù hiện nay các nước đang nỗ lực để mọi thứ bình thường trở lại. Do vậy, việc triển khai thực hiện hiệu quả các gói hỗ trợ của Chính phủ cho doanh nghiệp và người lao động là cấp thiết giúp vực dậy nền kinh tế nói chung, thị trường lao động và doanh nghiệp nói riêng.

II. NGUYÊN NHÂN THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM

Lực lượng lao động đang ra tăng với tỷ lệ nhanh chóng với hơn một triệu việc làm mới mỗi năm. Tỷ lệ thất nghiệp giữa thanh niên đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng ở Việt Nam, nơi mà dân số dưới độ tuổi 24, chiếm phần lớn trong số người thất nghiệp. Tỷ lệ của những người tìm việc làm lần đầu, đa số họ là những người lao động trẻ và phụ nữ, trong tổng số người thất nghiệp đã tăng lên trong thập kỷ qua. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm suy giảm số người lao động hiện đang làm việc tại các xí nghiệp, hợp tác xã quốc doanh. Trong vòng từ 3-5 năm tới, dự tính hơn 500 công nhân sẽ bị mất việc

làm tại các xí nghiệp quốc doanh, đấy là chưa tính số công nhân về hưu trước tuổi. Tương tự như một số nước, việc tự do hoá nền kinh tế và cải cách cơ cấu đã khuyến khích cho các doanh nghiệp nhỏ thuộc khu vực phi chính quy và khuyến khích việc ký hợp đồng lao động. Những yếu này được xem là sẽ tạo ra một thị trường năng động, tích cực hơn, giảm các chi phí về lao động, năng suất cao hơn nhưng cũng là cách thức để lẩn tránh các điều luật và quy định về lao động. Điều này dẫn tới mất sự bảo đảm về nghề nghiệp, những lợi ích về kinh tế, xã hội và sự suy giảm có thể về việc làm và điều kiện lao động cho công nhân. Các cơ hội về việc làm bị suy giảm trong khu vực quốc doanh đối với những người lao động mới và những sinh viên tốt nghiệp đại học bởi vì việc giảm quy mô của khu vực dân sự và các doanh nghiệp quốc doanh. Trong năm 2000, Nhà nước đã tuyển dụng khoảng 1,4 triệu người vào làm việc, tăng khoảng 2,5% so với năm 1999. Tuy nhiên, việc cắt giảm 15% người lao động trong khu vực dịch vụ dân sự đã có trong kế hoạch với hơn 70 người lao động sẽ mất việc làm vào năm 2002. Trong khi đó, 8% số người lao động trong bộ máy quản lý ở cấp trung ương cấp thành phố và cấp tỉnh 1 tỷ đồng cũng đang bị cắt giảm. Chính phủ đang bị cắt giảm và 72% số người lao động trong các tổ chức nhà nước đã có kế hoạch dành hơn 1 tỷ tỷ Đồng Việt nam cho việc cắt giảm chỗ làm việc trong khu vực dịch vụ dân sự. Việt Nam cũng đang trong tình trạng thiếu những công nhân lành nghề và bán lành nghề. Chỉ 22% trong tổng số người lao động đã được qua đào tạo và chỉ 13,4% được đào tạo nghề. Cuộc điều tra lực lượng lao động được tiến hành năm 1999 đã chỉ ra rằng 86% trong lực lượng lao động là không có tay nghề. Ví dụ, tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT ) dự tính rằng 50% trong số lao động của Tổng công ty là những người lao động không có chuyên môn (chủ yếu những người làm công việc dịch vụ thư tín ) và họ cần được đào tạo. Hơn 100 xí nghiệp hoạt động tại miền nam có nhu cầu tuyển dụng 17 kỹ sư vào làm việc, tuy nhiên họ không tuyển dụng được những người lao động có trình độ và kinh nghiệm vào làm việc. Những khu công nghiệp (IPs) được thành lập ở một số tỉnh ở Việt Nam đã tạo được việc làm cho người lao động tại các khu vực tập trung, tuy nhiên thường thì họ không tuyển dụng những người dân địa phương vào làm việc vì đó là những người không có tay nghề, (Ví dụ các khu công nghiệp Bình Dương tuyển dụng hơn 35. người lao động Việt Nam nhưng trong số này, chỉ có 13% là người tại địa phương.

thanh niên đang ở mức cao nguy hiểm ở một số khu vực ở đô thị (tỷ lệ này là 52% đối với những người trong độ tuổi từ 15- 24 ). Ngày càng nhiều thanh niên di chuyển đến các thành phố với hy vọng tìm được việc làm và đôi khi họ làm nghề bán hàng rong trên đường phố, bán bưu thiếp, đánh giày hoặc bán thuốc lá để kiếm kế sinh nhai và gửi tiền về hỗ trợ gia đình. Chiến lược về việc làm ở Việt Nam cũng phụ thuộc vào số công nhân đi lao động ở nước ngoài. Việt Nam đã thành công trong lĩnh vực đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trong khoảng thời gian từ 1995- 2000, hơn 95 người lao động đã được đưa đi làm việc ở các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Li bi. Những người lao động này đã gửi tiền lương của họ về để giúp đỡ thân nhân trong nước với số tiền từ 80 triệu đến 220 triệu đồng mỗi người mỗi năm. Tuy nhiên, thực tế là cũng có nhiều nước khác sẵn sàng đưa lao động đi làm việc tại nước ngoài, do đó cũng chưa thể biết được liệu các nước nhập khẩu lao động trong tương lai sẽ cần bao nhiêu lao động nước ngoài. Việc sắp xếp lại ngành công nghiệp và tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới cũng cần nhiều thời gian, vì thế, tỷ lệ thất nghiệp số học cũng gia tăng. Sự phát triển nhanh của đầu tư tư nhân là cần thiết cho việc tạo việc làm. Sự tăng trưởng về đầu tư tư nhân cũng đang ở dưới mức cần thiết để tạo ra số việc làm cần thiết ỏ Việt Nam nhằm đáp ứng được nhu cầu của những người mới bước vào lực lượng lao động mỗi năm. Cần có một khoảng thời gian đối với một người tìm việc cho tới khi tìm thấy một việc làm thích hợp. Việt Nam vẫn cần phải bắt đầu sự chuyển đổi từ các ngành công nghiệp cần nhiều lao động sang một nền công nghiệp có tay nghề chuyên môn cao. Thiên tai có thể ảnh hưởng đến một bộ phận lớn trong lực lượng lao động tại những vùng bị thiệt hại bị mất việc làm cho tới khi họ có thể khắc và xây dựng cuộc sống và kế sinh nhai của họ Bảo hiểm thất nghiệp không thể giải quyết tất cả về nguyên nhân thất nghiệp nói trên. Tuy nhiên, nó có thể góp vào việc làm giảm đi những tác động của thất nghiệp đối với công nhân và cũng đóng góp được cho chế độ bảo hiểm xã hội. Các hình thức khác của trợ cấp thất nghiệp có thể được sử dụng như là một phần của chiến lược việc làm hội nhập để hỗ trợ cơ bản về thu nhập và đào tạo tay nghề để tạo cơ hội tốt hơn cho người lao động tìm được việc làm. Các chính sách đều nhằm vào

việc cải thiện chất lượng của lực lượng lao động, thông qua đào tạo nghề và giáo dục, dường như sẽ làm giảm đi số lượng người lao động có tay nghề kém trong thời gian tới. Mục đích của chế độ trợ cấp thất nghiệp thường được xem như là biện pháp để tạo điều kiện cho những người bị mất việc làm, không phải do lỗi của bản thân họ, một khoản bồi thường đủ để đáp ứng được nhũng nhu cầu ngay lập tức của họ và khoản thu nhập tương tự này sẽ giúp họ chi trả được những chi phí cần thiết cho đến khi tìm được việc làm mới.

III. ẢNH HƯỞNG CỦA THẤT NGHIỆP

1. Lợi ích của thất nghiệp

  • Thất nghiệp ngắn hạn giúp người lao động tìm công việc ưng ý và phù hợp với nguyện vọng và năng lực làm tăng hiệu quả xã hội.
  • Lợi ích xã hội: Làm cho việc phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả hơn và góp phần làm tăng tổng sản lượng của nền kinh tế trong dài hạn.
  • Thất nghiệp mang lại thời gian nghỉ ngơi và sức khỏe.
  • Thất nghiệp mang lại thời gian cho học hành và trau dồi thêm kỹ năng.
  • Thất nghiệp tạo sự cạnh tranh và tăng hiệu quả.
2. Tác hại
  • Hao phí nguồn lực xã hội: con người và máy móc. Quy luật Okun áp dụng cho nền kinh tế Mỹ nói rằng 1% thất nghiệp chu kỳ làm sản lượng giảm 2,5% so với mức sản lượng tiềm năng (xuống dưới mức tự nhiên).
  • Công nhân tuyệt vọng khi không thể có việc làm sau một thời gian dài.
  • Khủng hoảng gia đình do không có thu nhập.
  • Cá nhân thất nghiệp bị mất tiền lương và nhận trợ cấp thất nghiệp.
  • Chính phủ mất thu nhập từ thuế và phải trả thêm trợ cấp.
  • Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp – các nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và dịch vụ.
  • Thất nghiệp còn có nghĩa là sản xuất ít hơn. Giảm tính hiệu quả của sản xuất theo quy mô.
  • Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ không có người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt

không chỉ giải quyết bài toán yếu kém về cơ sở hạ tầng của nước ta như “phàn nàn” của nhiều nhà đầu tư nước ngoài, mà hơn thế là sẽ tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, giải quyết vấn đề lao động dôi dư do mất việc làm từ ảnh hưởng của suy thoái. Một khi vấn đề yếu kém của cơ sở hạ tầng được giải quyết, cộng hưởng các chính sách kinh tế vĩ mô khác thì việc thu hút nhà đầu tư nước ngoài sẽ trở nên khả quan hơn khi nền kinh tế thế giới hồi phục trở lại.

3. Tạo mọi điều kiện cho lao động mất việc.

Lao động bị mất việc cũng có tác động không nhỏ đến đời sống kinh tế xã hội. Trước tình hình lao động của quý I/2009, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã đưa ra ba giải pháp chủ yếu để hỗ trợ lao động mất việc làm. Thứ nhất, Tổng liên đoàn lao động các tỉnh, thành phố giúp đỡ người lao động sớm tìm được việc làm mới. Hiện nay Tổng liên đoàn có hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm (31 trung tâm). Theo báo cáo của Tổng liên đoàn lao động các tỉnh, thành thì đã có 80% lao động mất việc tìm được việc làm trở lại. Tổng liên đoàn lao động cũng chỉ đạo các sang cả các doanh nghiệp các tỉnh lân cận. Thứ hai , các trường dạy nghề của tổ chức công đoàn có nhiệm vụ nâng cao tay nghề cho người lao động hoặc thu hút người lao động vào học nghề, tranh thủ lúc không có việc. Bên cạnh việc giải quyết việc làm thì đầu tư cho công tác dạy nghề cũng là biện pháp kích cầu không kém phần quan trọng. Trong bối cảnh lực lượng lao động mất việc làm tăng nhanh như hiện nay, hằng năm chúng ta phải giải quyết tối thiểu cho khoảng 1,2 triệu việc làm mới, khoảng trên 1 triệu lao động chuyển từ khu vực nông thôn ra thành thị thì sức ép giải quyết việc làm càng trở nên nặng nề hơn. Trong khi đó, nếu chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2009 không đạt được mức 6,5% thì tỉ lệ thất nghiệp tăng cao sẽ càng ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đến an sinh xã hội và làm “mất an toàn xã hội” theo cách đánh giá của ILO. Đấy là chưa tính đến việc số hộ nghèo, người nghèo sẽ tăng cao nếu chúng ta áp dụng chuẩn nghèo mới. Thứ ba, cho vay vốn từ quỹ quốc gia của Tổng liên đoàn. Những người lao động mất việc do suy thoái kinh tế sẽ được vay vốn để họ có thu nhập giải quyết khó khăn trước mắt. Ngoài ra, ở một số tình, thành phố con có thêm quỹ trợ vốn cho lao động nghèo. Quỹ này cũng cho người lao động mất việc làm vay vốn để tạo công việc. Điều này đã mang lại hiệu quả tương đối tốt, giúp người lao động ổn định cuộc sống.

4. Hoàn thiện hệ thống bảo hiểm thất nghiệp.

Bảo hiểm thất nghiệp ra đời sẽ góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho người lao động được học nghề và tìm việc làm, sớm đưa họ trở lại làm việc. Bên cạnh đó bảo hiểm thất nghiệp còn giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp.

5. Những biện pháp khác

− Trợ cấp một tỷ lệ nhất định trong quỹ lương ở các doanh nghiệp. Họ cũng có thể hỗ trợ doanh nghiệp trong nghĩa vụ nộp bảo hiểm xã hội, quỹ lương hưu v... mà mục đích không gì khác ngoài việc giúp doanh nghiệp cắt giảm được chi phí nhân lực liên quan mà không cần phải sa thải nhân công. − Cắt giảm thuế tiêu thụ cũng giúp giảm gánh nặng chi tiêu cho người tiêu dùng với hy vọng rằng tổng cầu sẽ được duy trì ở mức khả dĩ, tác động tích cực ngược lại đến doanh nghiệp và do đó giảm thiểu được nạn sa thải nhân lực do sản xuất kinh doanh đình đốn. − Thông qua các tổ chức công đoàn thuyết phục người lao động và chủ doanh nghiệp chấp nhận một mức cắt giảm trong tiền lương để duy trì số công ăn việc làm trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, biện pháp này cũng lại chỉ được áp dụng được ở những nơi có tổ chức công đoàn và vẫn còn hoạt động. − Đào tạo nghề cho bà con ở nông thôn đặc biệt là con cái của họ, khi diện tích đất sản xuất của họ bị thu hồi thì có thể dể dàng chuyển sang làm những ngành nghề khác. − Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động là nơi mà không những giải quyết được tình trạng thất nghiệp ở trong nước mà còn thu được nguồn ngoại tệ không nhỏ cho quốc gia. − Chú trọng đầu tư cho giáo dục và đào tạo. − Hạn chế tăng dân số. − Khuyến khích sử dụng lao động nữ. − Tập trung phần vốn tín dụng từ quỹ quốc gia về việc làm với lãi xuất ưu đãi do các đối tượng trọng điểm vay theo dự án nhỏ để tự tạo việc làm cho bản thân gia đình và công cộng.

Giá trị hàng hóa sức lao động gồm những gì?

Giá trị hàng hoá sức lao động được quyết định bởi lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động; gồm 3 bộ phận hợp thành: Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động; Chi phí đào tạo người lao động; Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cho gia đình người lao động.

Giá cả của hàng hóa sức lao động là gì?

Giá cả lao động (gọi một cách chính xác là giá cả của hàng hóa sức lao động) là toàn bộ số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người lao động phù hợp với lượng giá trị sức lao động mà người đó đã cống hiến, phù hợp với cung cầu về lao động trên thị trường lao động.

Hàng hóa sức lao động là gì?

Khái niệm hàng hóa sức lao động. Hàng hóa sức lao động là kết quả của việc biến đổi sức lao động của con người thành một loại hàng hóa có khả năng trao đổi và mua bán trên thị trường. Điều này phản ánh sự kết hợp giữa năng lực lao động và quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ.

Giá trị do sức lao động tạo ra là gì?

Giá trị của hàng hóa sức lao động do các bộ phận sau đây hợp thành: Một là, giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết (cả vật chất, tinh thần) để tái sản xuất ra sức lao động; Hai là, phí tổn đào tạo người lao động; Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết (vật chất và tinh thần) nuôi con của người lao động.