Đồng chí Tôn Đức Thắng là Chủ tịch nước thứ máy của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Chủ tịch Tôn Đức Thắng – Bác Tôn sinh ngày 20-8-1888 tại Cù lao Ông Hổ thuộc làng An Hòa, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên (nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang) trong một gia đình trung nông. Sinh ra trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm, các phong trào yêu nước thất bại và bị đàn áp khốc liệt, không khí chính trị ấy đã tác động rất sâu sắc đến nhận thức của Bác từ thuở thiếu niên. Bên cạnh đó, quê hương An Giang - giàu nghĩa tình và truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm - đã góp phần bồi đắp những phẩm chất cao quý trong tính cách và tâm hồn Tôn Đức Thắng - vĩ đại trong cái bình thường, bình thường một cách vĩ đại.

Đồng chí Tôn Đức Thắng là Chủ tịch nước thứ máy của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
 

Lúc thiếu thời, Bác Tôn đã học “nho học”, chữ quốc ngữ và trường Pháp. Bài học làm người, về nhân sinh quan, về tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc của Bác được truyền từ người thầy đầu tiên, nhà nho yêu nước Nguyễn Thượng Khách, trong nhóm “Đông Kinh nghĩa thục”. Từ khi còn là người thanh niên có học thức của một gia đình trung nông, Bác Tôn không chọn con đường đi làm thầy thông, thầy ký mà quyết định học làm thợ ở trường Bá Nghệ Sài Gòn và trở thành người công nhân Việt Nam. Hoạt động cách mạng ban đầu của Bác Tôn là tập hợp thanh niên, hun đúc tinh thần yêu nước, ý chí chống áp bức, bất công. Khi đứng trong hàng ngũ giai cấp công nhân Pháp, Bác Tôn trở thành người Việt Nam đầu tiên tham gia cuộc phản chiến ở Biển Đen, góp phần bảo vệ Nhà nước Xô Viết non trẻ vừa hình thành sau Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Khi trở về nước, Bác Tôn tổ chức Công hội bí mật ở Sài Gòn - Chợ Lớn và được cử làm Hội trưởng.

Tháng 7 năm 1929, Bác Tôn bị thực dân Pháp bắt và giam cầm ở khám lớn Sài Gòn, sau đó bị kết án 20 năm khổ sai. Đầu tháng 7-1930, Bác Tôn bị đày ra Côn Đảo - “địa ngục trần gian” với bao cực hình dã man của chế độ nhà tù thực dân, khi thì làm công việc khổ sai, khi thì bị nhốt vào hầm xay lúa, nhưng không lay chuyển được ý chí kiên trung, bất khuất, một lòng giữ trọn niềm tin vào cách mạng của người cộng sản. Uy tín và ảnh hưởng của Tôn Đức Thắng đã lan tỏa không những trong những người cộng sản mà còn cảm hóa được một số tù Quốc dân Đảng và tù thường phạm. Cũng chính tại nơi “địa ngục trần gian” này, Tôn Đức Thắng đã tham gia thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Côn Đảo và tích cực đấu tranh chống lại chế độ lao tù hà khắc của thực dân Pháp.

Cách mạng Tháng Tám thành công, từ Côn Đảo trở về, vừa đặt chân lên đất liền, Bác Tôn đã tham gia ngay vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đầu năm 1946, Bác được điều động ra Hà Nội công tác bên cạnh Bác Hồ, Trung ương Đảng và Chính phủ, với trọng trách Ủy viên Ban Thường trực Quốc hội (Tháng 3-1946), Phó Trưởng Ban Thường trực Quốc hội (tháng 11-1946), Bộ trưởng Bộ Nội vụ (tháng 4-1947), Trưởng Ban Trung ương vận động thi đua ái quốc (tháng 01-1948), Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội (năm 1948). Tháng 01-1948, Bác được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa II (tháng 7-1960), Bác Tôn được bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu “về cõi vĩnh hằng”, tại Kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa III đã bầu Bác Tôn làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm Phó Chủ tịch nước. Tại Kỳ họp này, đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong phát biểu chúc mừng có đoạn khẳng định: “… Cụ Tôn Đức Thắng và đồng chí Nguyễn Lương Bằng là hai chiến sĩ lão thành của cách mạng Việt Nam, những người bạn chiến đấu gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những người con ưu tú của dân tộc Việt Nam ta…”[1].

Trãi qua nhiều trọng trách được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, Bác Tôn luôn nêu cao tấm gương sáng ngời về tinh thần yêu nước; ý chí đấu tranh cách mạng kiên cường; lòng trung thành, tận tụy; đạo đức trong sáng, mẫu mực, đức tính khiêm tốn, giản dị; tình thương yêu đồng chí, đồng bào; tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc và tình đoàn kết quốc tế vô sản, đúng như trong tác phẩm: Tôn Đức Thắng: Một con người bình thường - Vĩ đại, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “… Di sản quý nhất mà đồng chí Tôn Đức Thắng để lại cho nhân dân là chất người Tôn Đức Thắng, sản phẩm tổng hợp của chất hào hiệp Nam Bộ, chất kiên cường và tài năng sáng tạo Việt Nam, chất tiên phong của giai cấp công nhân, chất cách mạng của người yêu nước, người cộng sản, chất nhân đạo của con người…”.

Sớm thoát ly gia đình, xa quê hương hoạt động cách mạng nên tình yêu và nỗi nhớ xứ sở vẫn luôn da diết khôn nguôi trong tâm trí Bác. Lần đầu sau ngày miền Nam hòa toàn giải phóng thống nhất đất nước, Bác về thăm An Giang trong nỗi bùi ngùi xúc động. Mặc dù mấy mươi năm xa quê hương nhưng Bác vẫn giữ nét chân chất của người miệt vườn, luôn ân cần, giản dị, thăm hỏi mọi người. Nhân dân An Giang luôn ghi nhớ lời căn dặn quý báu của Bác: Phải đoàn kết, phấn đấu trở thành một tỉnh giàu mạnh, Nhân dân ấm no, ai cũng được học hành như Bác Hồ mong muốn trong Di chúc lịch sử của Người.

Kỷ niệm 133 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, ôn lại cuộc đời hoạt động cách mạng và những cống hiến to lớn của Người, chúng ta càng thêm kính trọng và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc Chủ tịch Tôn Đức Thắng - một chiến sĩ cách mạng kiên trung của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, nhà lãnh đạo mẫu mực của Đảng, đã hiến dâng cả cuộc đời cho lý tưởng cộng sản, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hộiĐây cũng là dịp để chúng ta học tập, làm theo tấm gương đạo đức Chủ tịch Tôn Đức Thắng - một gương mẫu đạo đức cách mạng; suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phụng sự nhân dân.

Tự hào về sự nghiệp và đạo đức cách mạng trong sáng của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Đảng bộ và Nhân dân An Giang nguyện đoàn kết một lòng, ra sức học tập, công tác, nêu cao ý chí tự lực tự cường, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, khai thác tiềm năng thế mạnh, tận dụng thời cơ và các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, xây dựng tỉnh An Giang không ngừng phát triển, xứng đáng là quê hương của Chủ tịch Tôn Đức Thắng.

TS. Lê Hồng Quang

                                           Ủy viên BCHTW Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang

[1] “Bác Tôn - nhà cách mạng bất tử”, trong Tôn Đức Thắng, người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2003, tr.24.  

Một trong những điểm tham quan nổi tiếng và thu hút rất đông khách du lịch trong và ngoài nước mỗi khi có dịp đến thăm thành phố Long Xuyên là ngôi nhà lưu niệm thời niên thiếu của Chủ tịch Tôn Đức Thắng tọa lạc ở ấp Mỹ An, xã Mỹ Hòa Hưng (Cù lao Ông Hổ, thuộc thành phố Long Xuyên).

Đồng chí Tôn Đức Thắng là Chủ tịch nước thứ máy của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Đường về Quê hương Bác Tôn

Ngôi nhà này do song thân của Bác Tôn xây dựng vào năm 1887. Sau, được người em trai thứ tư của Bác là Tôn Đức Nhung có sửa chữa một lần vào năm 1932 (nhưng vẫn giữ y theo lối kiến trúc hình chữ Quốc (nho), mái lợp ngói ống, sàn lót ván, ngang 12 mét, dài 13 mét, rộng hơn 150m2. Bên trong, ngôi nhà vẫn còn lưu giữ hai bức ảnh bán thân song thân Bác là ông Tôn Văn Đề và bà Nguyễn Thị Dị, một tấm ảnh Bác Tôn chụp năm 18 tuổi, và một  ảnh chụp  tại chiến khu Việt Bắc lúc Bác làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt, gửi về gia đình có chữ ký với dòng chữ ở phía sau “Kính biếu mẹ già và mấy em. Ngày 24 tháng 7 năm 1951”.

Đồng chí Tôn Đức Thắng là Chủ tịch nước thứ máy của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Đồng chí Tôn Đức Thắng là Chủ tịch nước thứ máy của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Ngôi nhà cho đến nay không chỉ được bảo tồn tốt mà, trên khu đất rộng 6,7ha ấy được tôn tạo và xây mới thêm nhiều công trình rất hoành tráng như Đền thờ, Nhà trưng bày hình ảnh và hiện vật về thân thế, sự nghiệp của Bác, công viên đầy ắp hoa kiểng, vườn cây ăn trái, nhiều công trình điêu khắc nghệ thuật, mà phần lớn là tượng tròn với những chất liệu khác nhau như xi măng, đá, gỗ…, trong đó đồ sộ và uy nghiêm nhất là Đền thờ Bác, kiến trúc cổ lầu tam cấp, rộng đến 1.600 m2.

Bộ Văn hóa có quyết định số 114 ngày 30/8/1984 công nhận ngôi nhà ở ấp Mỹ An, xã Mỹ Hòa Hưng – nơi Bác Tôn sinh sống thời niên thiếu, là di tích lịch sử lưu niệm thời niên thiếu của Chủ tịch Tôn Đức Thắng.  Sau đó,  ngày 15/9/1984 Bộ Văn hóa cũng đã ra quyết định công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia do Quyết định số 666/VH.QĐ. Và mới đây, ngày 17/07/2012 vừa qua, cũng trên Cù lao Ông Hổ này, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã long trọng tổ chức theo nghi thức Nhà nước lễ công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc xếp hạng Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng là di tích cấp Quốc gia đặc biệt. Đây là 1 trong số 23 di tích Quốc gia đặc biệt của Việt Nam có ý nghĩa chính trị rất lớn, không chỉ để nhằm tưởng nhớ công lao to lớn của Bác Tôn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước sau khi thống nhất, mà còn là dịp để người dân An Giang cũng như cả nước học tập tấm gương đạo đức sáng ngời của Bác Tôn, tự hào về lịch sử truyền thống hào hùng của dân tộc.

Đồng chí Tôn Đức Thắng là Chủ tịch nước thứ máy của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Những dấu ấn đáng nhớ trong cuộc đời hoạt động của Người.

– Ngày 20/8/1888: Tại Cù lao Ông Hổ (xã Mỹ Hoà Hưng, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên – nay là xã Mỹ Hoà Hưng, TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang) ông Tôn Văn Đề và bà Nguyễn Thị Dị sinh được cậu con trai đầu lòng, đặt tên là Tôn Đức Thắng, tức Bác Tôn.

– 1906: Sau khi đã học xong bậc tiểu học ở Long Xuyên, 18 tuổi, anh Hai Thắng lên Sài Gòn học làm thợ máy tại École des Mécaniciens Asiatiques de Sài Gòn (Trường của những người thợ máy Châu Á ở Sài Gòn), là trung tâm duy nhất đào tạo thợ máy tàu thuỷ của Pháp ở Đông Dương. Sau khi tốt nghiệp anh Hai Thắng vào làm việc tại xưởng Arsenal de Sài Gòn tức xưởng Ba Son, chuyên sửa chữa chân vịt tàu tại phân xưởng cơ khí – trọng tâm của Ba Son.

– 1910: Vào làm thợ máy trong xưởng Kơ-rốp thuộc Sở Kiến trúc cầu đường và nhà cửa ở Sài Gòn.

– 1912: Lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son, và vận động học sinh trường Bách nghệ Sài Gòn bãi khoá. Cuộc bãi công nêu cao yêu sách:

1) Tăng lương đồng loạt 20%.

2) Gọi những người bị sa thải trở lại làm việc.

3) Giữ nguyên lệ cũ: Công nhân được nghỉ 30 phút trước khi lĩnh lương vào ngày đầu tháng thay vì chỉ 15 phút. Cuộc bãi công kéo dài nhiều ngày mà không ảnh hưởng gì đến đời sống công nhân, vì anh Hai Thắng đã vận động và được công nhân các xưởng khác đoàn kết ủng hộ tiền, gạo giúp đỡ gia đình công nhân trong suốt thời gian bãi công, nên cuối cùng bọn chủ Pháp phải nhượng bộ, chấp nhận các yêu sách. Công nhân trở lại làm việc với thái độ cầm chừng vì họ chỉ tăng lương 10%.

– Cuối 1912: Anh Hai Thắng vận động toàn thể công nhân xưởng Ba Son bãi công, đồng thời vận động học sinh trường Bách nghệ Sài Gòn bãi khoá. Cuộc đấu tranh đầu tiên đó của giai cấp công nhân đã giành được thắng lợi, và biểu lộ sức mạnh của lực lượng xã hội mới. Chính vì vậy nên chính quyền thực dân Pháp mở chiến dịch tìm bắt những người lãnh đạo cuộc bãi công. Anh Hai Thắng buộc phải trốn tránh, cải trang và thay đổi tên khác, xin vào làm cho công ty tàu biển chạy trên Đại Tây Dương. Thế là, trên chiếc tàu mang tên La Coóc, anh đã ra nước ngoài sang Pháp.

– 1913: Làm công nhân quân giới tại xưởng Arsenal de Toulon – quân cảng ở miền Nam nước Pháp.

– Ngày 9/10/1916: Người thợ máy Tôn Đức Thắng nhận lệnh phục vụ trên chiến hạm Paris của Pháp (nhiều tài liệu khác ghi là chiến hạm France hoặc Waldeck Rousseau – đây ghi theo lời kể của Bác Tôn).

– Ngày 16/4/1919: Mặc dù chiến tranh thế giới đã kết thúc, chính phủ Pháp vẫn điều động một hạm đội gồm 5 chiến hạm tiến vào biển Đen để tấn công nước Nga Xô Viết. Hơn ai hết, anh Hai Thắng hiểu rằng: “Chống lại Cách mạng tháng Mười có nghĩa là chống lại những lợi ích cơ bản của dân tộc mình, giai cấp mình, và những người thân yêu mình”, do đó anh đã cùng những người có tư tưởng phản chiến quyết định “làm binh biến” ngay trên tàu.

– Ngày 20/4/1919: Lúc 8 giờ sáng, anh Hai Thắng – người thợ máy Việt Nam duy nhất trên chiến hạm đó – đã dũng cảm nhận lãnh và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kéo lá cờ đỏ trên cột cờ của chiến hạm để nhằm biểu thị sự đoàn kết với Cách mạng tháng Mười Nga mà anh đã từng nghe biết và có cảm tình từ lâu. Cuộc binh biến thành công. Thế là vòng vây của đế quốc Pháp đối với đất nước Nga Xô Viết đã bị phá bung. Dưới áp lực của những người phản chiến, tất cả các tàu chiến khác của hạm đội, theo lệnh bọn chỉ huy đều phải quay trở về. Tất nhiên chúng đã “lấy danh dự” hứa với họ là về Pháp sẽ không trả thù bất cứ ai. Nhưng họ đã nuốt lời! Chúng bắt hàng loạt binh sĩ, công nhân có tham gia phản chiến trên tàu, đưa Toà án quân sự xét xử. Anh Hai Thắng may mắn trốn thoát đi thẳng đến Paris, với giấy tờ giả mạo, anh xin vào làm việc ở nhà máy Rơ-nô, để rồi sau đó, cuối năm 1919 anh tìm cách rời khỏi nước Pháp an toàn.

– 1920: Trở về Sài Gòn, làm công nhân cho hãng KROF và CIE. Anh Hai Thắng vận động thành lập Công hội bí mật tại cảng Sài Gòn, rồi phát triển trong công nhân Ba Son, FACI, nhà đèn Sài Gòn, nhà đèn Chợ Quán và một số cơ sở khác trong thành phố. Đó là những công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam (để sau đó, 1927, giai cấp này được phát triển vào tổ chức “Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội” – Bác Tôn đã bắt liên lạc được với những học trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tức Bác Hồ, thông qua tổ chức này). Như vậy Bác Tôn và các bạn công nhân của Bác là lớp người đầu tiên tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê Nin trong giai cấp công nhân Việt Nam, và tham gia hoạt động tích cực trong quá trình vận động thành lập chính đảng của giai cấp vô sản Việt Nam.

– Tháng 12/1920: Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (có Nguyễn Ái Quốc tham dự, và Người đã cùng với những chiến sĩ cách mạng Pháp bỏ phiếu cho Đảng tham gia “Quốc tế thứ 3”). Đại hội dành vinh dự lớn cho “Những người tham gia nổi dậy ở Biển Đen” làm Chủ tịch vinh dự của Đại hội, trong đó có người công nhân Việt Nam Tôn Đức Thắng của chúng ta – Bác Tôn, đã góp phần “nhỏ bé” của mình vào chiến công chung rất vẻ vang này.

– Ngày 4/8/1925: Bác Tôn lãnh đạo công nhân Ba Son tổ chức cuộc đình công để trì hoãn việc sửa chữa chiến hạm Guyn-lơ Mi-sơ-lê (Jules Michelet) mà người Pháp dùng nó để chở lính sang Trung Quốc đàn áp phong trào cách mạng ở đó (do vậy đến 28/11/1925 tàu mới sửa xong, tức phải nằm ở xưởng Ba Son hơn ba tháng rưởi). Lại một lần nữa Bác Tôn đã thể hiện rất cao tinh thần quốc tế vô sản.

– Giữa năm 1927: Bác Tôn được bầu vào Ban chấp hành Kỳ bộ Nam kỳ của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội với chức vụ Ủy viên Ban chấp hành kỳ bộ Nam kỳ. Bác Tôn được phân công trực tiếp lãnh đạo phong trào công nhân Sài Gòn – Chợ Lớn.

– Tháng 12/1928: Trong quá trình hoạt động cách mạng và vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Bác Tôn bị thực dân Pháp bắt ở Sài Gòn.

– Ngày 26/7/1929: Hội đồng đề hình thành phố Sài Gòn đã đưa ra xét xử Bác và nhiều người khác. Chúng tuyên án Tôn Đức Thắng 20 năm khổ sai.

– Đêm 2/7/1930: Con tàu Harmand Rousseau chở Bác Tôn và những người tù từ Khám lớn Sài Gòn, rời cảng Nhà Rồng đày đi Côn Đảo. Pháp ghi Bác Tôn là “phần tử nguy hiểm”. Số tù của Bác: 5289.20 TF (TF: Viết tắt của Traveaux Forcés, có nghĩa lao dịch khổ sai có thời hạn). Tại Côn Đảo, Bác bị giam ở khám 9, banh I (bagne).

– 1932: Với mục đích biến nhà tù thành trường học Cộng sản của mình, Bác Tôn và một số đồng chí thành lập Chi bộ Đảng nhà tù (ông Nguyễn Hới làm Bí thư, Bác Tôn và một số đồng chí khác làm uỷ viên). Để tiện thông tin, giáo dục, Chi bộ quyết định cho ra đời tờ báo viết tay lấy tên là Ý kiến chung. “Toà soạn” đặt tại khám 9, banh I, tức nơi giam Bác Tôn. Rồi sau đó ra thêm tờ Tiến lên, mỗi kỳ ra 30 bản, mỗi bản 30 trang, khổ nhỏ cở bloc lịch, khoảng 1/6  hay 1/4  giấy học trò.

Hoạt động của Bác bị kẻ thù phát hiện (dùng cán chổi dộng vào tường để liên lạc với những người tù chính trị ở banh II), nên chúng chuyển nhốt Bác ở xà lim số 15, phạt Bác phải ăn cơm nhạt 2 tuần, rồi tống giam vào hầm xay lúa, nơi được xem là “địa ngục của địa ngục”. Hết hạn khổ sai ở hầm xay lúa, chúng chuyển Bác trở về khám 9, banh I.

– 1934: Bác Tôn được ra làm ở Sở lưới.

– Ngày 23/9/1945: Bác và khoảng gần 1.500 người tù khác bị giam giữ ở nhà tù Côn Đảo được Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời Nam Bộ cử một phái đoàn đưa tàu ra đón về đất liền. Ngay trong ngày “Nam Bộ kháng chiến” (chống giặc Pháp trở lại xâm lược Sài Gòn). 23/9 Bác Tôn được bổ sung vào Xứ uỷ và phân công phụ trách Ủy ban kháng chiến Nam Bộ kiêm chỉ huy các lực lượng vũ trang Nam Bộ (Như vậy thời gian Bác Tôn bị đày ở Côn Đảo là 15 năm có dư vài tháng, khoảng 5.550 ngày đêm chịu khổ nhục trăm bề ở chốn địa ngục trần gian!).

– Ngày 25/10/45: Bác Tôn tham dự Hội nghị xứ uỷ Nam Bộ mở rộng (do ông Hoàng Quốc Việt, thay mặt Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trì tại Thiên Hộ, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho), Bác Tôn được phân công phụ trách Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ, kiêm chỉ huy các lực lượng vũ trang Nam bộ.

– Ngày 6/1/1946: Bác Tôn được nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn bầu làm đại biểu Quốc hội khoá I trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

– Cuối tháng 2/1946: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng quyết định điều Bác Tôn ra công tác Hà Nội. Từ ấy Bác Tôn luôn bên cạnh Bác Hồ và Trung ương.

– Tháng 4/1946: Bác Tôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quốc hội nước ta cử tham gia đoàn Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sang thăm nước Pháp (do ông Phạm Văn Đồng dẫn đầu).

– Cuối tháng 5/1946: Bác Tôn được toàn thể đại biểu Hội nghị nhất trí bầu làm Phó Chủ tịch Mặt trận Liên Việt (Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch danh dự; Phó Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng được bầu làm Phó Chủ tịch hội) để lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi. Mục đích của Mặt trận là: “Đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và các đồng bào vô đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường”. Ngoài cương vị lãnh đạo Mặt trận Liên Việt, Bác Tôn được Trung ương Đảng, Chính phủ phân công giữ nhiều trọng trách: Tổng thanh tra Chính phủ, Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ; Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch danh dự Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hội trưởng Hội Hữu nghị Việt – Xô.

– Năm 1948: Ngày 1/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 195, thành lập Ban vận động thi đua ái quốc Trung ương. Trước đó, Bác Hồ và Thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định cử Bác Tôn, Ủy viên Trung ương Đảng, làm Trưởng ban Trung ương vận động Thi đua ái quốc.

– Từ 11 – 19/2/1951: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Bác Tôn được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.

– Từ 3 – 7/3/1951: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc thống nhất Việt Minh, Bác Tôn được bầu làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt (Bác Hồ được suy tôn Chủ tịch danh dự Mặt trận).

– Tháng 9/1945: Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá I, họp tại Hà Nội, Bác Tôn được bầu làm Trưởng ban thường trực Quốc hội.

Cũng trong tháng này, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc, Bác Tôn được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

– Tháng 12/1955: Bác Tôn là người Việt Nam đầu tiên được Uỷ ban giải thưởng hoà bình quốc tế Lê Nin của Liên Xô quyết định tặng giải thưởng Lê Nin “Vì hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc”.

– Tháng 11/1956: Dẫn đầu đoàn đại biểu nước ta sang thăm Liên Xô.

–Tháng 2/1957: Ban Thanh toán nạn mù chữ trung ương được thành lập, Bác Tôn được cử làm Trưởng ban.

– Ngày 19/8/1958: Nhân dịp Bác Tôn tròn 70 tuổi, tại Câu lạc bộ Ba Đình (Hà Nội – nay là quảng trường Ba Đình), Bác Hồ đã thay mặt nhân dân, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tặng Bác Tôn huân chương Sao vàng – huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta, vì Bác đã có nhiều cống hiến xuất sắc trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong buổi lễ trao tặng huân chương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên và Người rất xứng đáng được tặng thưởng huân chương ấy”.

– Ngày 15/7/1960: Quốc hội đã nhất trí bầu Bác Tôn Đức Thắng làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã siết chặt tay Bác Tôn nói: “Toàn thể Quốc hội nhất trí bầu cụ làm Phó Chủ tịch nước, tức là đồng bào miền Nam đều bầu cụ làm Phó Chủ tịch nước. Điều đó tiêu biểu rằng nước ta nhất định thống nhất”.

– Tháng 11/1967: Nhân kỷ niệm lần thứ 50 cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga, Bác Tôn được Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô tặng huân chương Lê Nin – huân chương cao quý nhất của Liên Xô – về những hoạt động góp phần vào cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền Xô Viết còn non trẻ (1919).

– Ngày 23/9/1969: Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Bác Tôn được Quốc hội nhất trí bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá II, họp ở Hà Nội ngày 23/9/1969.

– Ngày 15/5/1975: Chủ tịch Tôn Đức Thắng về miền Nam dự lễ mừng chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta tại thành phố Sài Gòn (mít tinh mừng ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 30/4/1975).

– Ngày 3/7/1976: Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá VI, Bác Tôn được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

– Tháng 8/1978: Bác Tôn được Đoàn Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ tặng huân chương Xu-Khê Ba-To – huân chương cao quý nhất của Mông Cổ – để ghi nhận công lao to lớn của Bác đã cống hiến cho sự nghiệp hoà bình hữu nghị và chủ nghĩa xã hội của các dân tộc, và trong việc củng cố tình hữu nghị anh em giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Mông Cổ.

– Ngày 30/3/1980: Sau gần 2 năm yếu mệt, Chủ tịch Tôn Đức Thắng từ trần, thọ 92 tuổi. Quốc hội, Nhà nước, Mặt trận đã quyết định tổ chức lễ quốc tang với nghi thức trọng thể. Toàn thể nhân dân Việt Nam để tang Bác Tôn trong 5 ngày từ 1 – 5/4/1980. Sáng ngày 1/4/1980, không chỉ tại Hội trường Ba Đình lịch sử mà ở quê hương Bác (xã Mỹ Hoà Hưng, An Giang) lễ viếng Bác Tôn cũng được cử hành rất trọng thể. Các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Mặt trận luôn luôn túc trực bên linh cửu Bác. Đã có gần 150 đoàn đại biểu với hơn 10.000 người thay mặt đồng bào cả nước đến viếng (và trên 20 điện chia buồn của các nước – bè bạn khắp năm châu). Ngày 4/4 lễ an táng Bác Tôn tại nghĩa trang Mai Dịch (Hà Nội) được cử hành rất trọng thể!

Nguồn phát hành :Nguyễn Hữu