Chữa bệnh glocom ở đâu

Glôcôm là bệnh mắt khá phổ biến trong cộng đồng. Bệnh rất nguy hiểm bởi nguy cơ gây mù lòa là rất lớn. Bệnh nhân glôcôm sau phẫu thuật cần được theo dõi chặt chẽ, tuân thủ các điều kiện vệ sinh, tái khám để phòng ngừa các biến chứng có thể xảy ra.

Về bệnh Glôcôm

Bệnh glôcôm còn có tên gọi phổ biến trong dân gian là “thiên đầu thống”. Glôcôm với tổn thương đặc trưng của đầu dây thần kinh thị giác, thường gây ra do áp lực trong nhãn cầu (nhãn áp) tăng. Trước đây, khi y học chưa phát triển, điều kiện thăm khám và chữa trị còn hạn chế, mắc thiên đầu thống là gần như cầm chắc mù lòa.

Ngày nay, với sự phát triển của y học, người dân cũng ý thức được nhiều hơn về việc thăm khám định kỳ để phát hiện bệnh sớm, người mắc glôcôm nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng cách sẽ tránh được mù lòa.

Bệnh nhân glôcôm có thể được điều trị bằng thuốc, bằng phẫu thuật hoặc điều trị phối hợp cả hai phương pháp trên. Do bệnh tiến triển âm thầm nên ở Việt Nam, hầu bhết bệnh nhân đến khám với hình thái và giai đoạn bệnh mà cần phải can thiệp phẫu thuật mới có thể cứu chữa được.

Tuy nhiên, sau phẫu thuật bệnh vẫn có thể tiếp tục tiến triển nặng hơn, đồng thời có thể gặp một số biến chứng. Do vậy việc chăm sóc và theo dõi bệnh nhân sau mổ glôcôm là rất cần thiết.

Chăm sóc ở giai đoạn sớm sau mổ

Ngay sau mổ, bệnh nhân cần tuân thủ nghiêm ngặt chế độ dùng thuốc theo đơn của bác sỹ, tra thuốc đúng cách, đúng thời gian quy định. Khoảng thời gian giữa các lần tra thuốc phải tương đối đều nhau, chia theo các buổi sáng, trưa, chiều, tối.

Các thuốc khác nhau phải tra cách nhau tối thiểu 10 phút để tránh các phản ứng chéo có thể xảy ra. Khi tra thuốc, cách tốt nhất là kéo nhẹ mi dưới xuống và nhỏ vào cùng đồ dưới.

Bệnh nhân cần giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, không đưa tay bẩn lên xoa mặt, đặc biệt là không chạm tay bẩn vào mắt, tránh va chạm mạnh vào mắt như: vắt tay lên trán, nằm sấp, vận động mạnh…Bệnh nhân cùng nên có tâm lý thoải mái, tránh lo lắng thái quá về bệnh tật gây căng thẳng thần kinh. 

Những ngày đầu sau mổ, bệnh nhân cần được có chế độ ăn uống đảm bảo dinh dưỡng, không cần ăn kiêng nhưng tránh dùng các chất kích thích (như rượu, bia, cà phê…). Các gia vị có thể khiến ngon miệng hơn nhưng dễ gây kích thích như ớt, hạt tiêu cũng nên tránh. 

Chăm sóc sau khi ra viện

Bệnh nhân vẫn tiếp tục phải giữ vệ sinh vùng mắt, tránh hoạt động, vận động nặng cho đến khi bác sĩ cho phép. Bệnh nhân tuyệt đối không để mắt bị bụi hay nước dính vào, thường xuyên đeo kính bảo hộ mắt, nhỏ thuốc mắt và uống thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ, tái khám đúng thời gian.

Do sau mổ có thể gặp một số biến chứng như: xuất huyết tiền phòng, dò mép mổ, bong hắc mạc, phản ứng viêm màng bồ đào và nặng nề nhất là glôcôm ác tính, nhiễm khuẩn gây viêm mủ nội nhãn….

Vì thế trong những tuần đầu sau mổ, bệnh nhân vẫn cần tuân thủ nghiêm ngặt chế độ khám và dùng thuốc theo đơn của bác sỹ, đặc biệt khi thấy mắt có biểu hiện nhìn mờ hay đau nhức thì cần phải đến khám ngay.

Mục đích trong điều trị glôcôm là bảo tồn chức năng thị giác cho bệnh nhân. Tuy nhiên, không phải là bệnh đã hoàn toàn được chữa khỏi sau phẫu thuật mà vẫn có nhiều trường hợp, sau nhiều năm, bệnh vẫn tiếp tục tiến triển dẫn tới mù loà mặc dù đã được phẫu thuật nhiều lần.

Thống kê cho thấy: có tới 46,3% trường hợp bệnh glôcôm vẫn tiếp tục tiến triển mặc dù đã được can thiệp phẫu thuật – mà một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra là do bệnh nhân không đến khám và theo dõi thường xuyên. Do đó, bệnh nhân cần phải ý thức được mức độ nguy hiểm của căn bệnh này, đến khám để được theo dõi bệnh thường xuyên tại các cơ sở y tế.

Bệnh nhân glôcôm đến khám sẽ được đánh giá chức năng thị giác bao gồm thị lực, thị trường, nhãn áp và các tổn thương thực thể, trong đó quan trọng nhất là đầu dây thần kinh thị giác và lớp sợi thần kinh quanh gai thị.

Ngoài khám lâm sàng, bệnh nhân còn được làm các xét nghiệm cận lâm sàng như đo thị trường, chụp ảnh đáy mắt, chụp cắt lớp võng mạc… Những kết quả đánh giá được lưu lại để tiện theo dõi ở những lần khám sau.

Chế độ theo dõi định kỳ

Tuỳ theo từng trường hợp có mức độ điều chỉnh nhãn áp, có sự tiến triển của bệnh nặng hay nhẹ và đặc biệt những bệnh nhân có bệnh toàn thân phối hợp như tiểu đường, tim mạch mà đến khám sớm hay muộn, thường xuyên hay không.

   + Những trường hợp không có tổn hại tiến triển của bệnh, nhãn áp điều chỉnh ( nhãn áp < 21mm Hg) thì chỉ cần khám lại từ 3 đến 6 tháng một lần.

   + Những trường hợp có nhãn áp tăng cao thì cần phải hạ nhãn áp bằng mọi cách, có thể bằng thuốc hay phẫu thuật.

   + Những trường hợp có nhãn áp thay đổi thất thường, đặc biệt đã có tổn hại tiến triển của bệnh thì cần phải có chế độ theo dõi thường xuyên, có thể phải nhập viện để theo dõi nhãn áp, cần thiết phải mổ lại.    

   + Nếu qua nhiều lần đo, nhãn áp luôn ở mức điều chỉnh nhưng chức năng thị giác vẫn tiếp tục giảm sút thì cần phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số nhãn áp như độ dày giác mạc trung tâm, chiều dài trục nhãn cầu….

Hoặc mức nhãn áp đó chưa thực sự an toàn với bệnh nhân, cần thiết có thể phải hạ nhãn áp xuống thấp hơn. Một nguyên nhân nữa có thể là ảnh hưởng của  một số bệnh toàn thân như đã đề cập ở trên nên bệnh nhân cần phải khám phát hiện và điều trị các bệnh toàn thân liên quan.

Chế độ dùng thuốc

Glôcôm với biểu hiện tổn thương đầu dây thần kinh thị giác và lớp sợi thần kinh quanh gai gây suy giảm chức năng thị giác. Do đó, bệnh nhân cần dùng thường xuyên các thuốc tăng cường tuần hoàn (giloba, tanakan…) thuốc bảo vệ thành mạch (rutin C), các vitamin nhằm tăng nuôi dưỡng cho các sợi thần kinh thị giác. Chế độ dùng thuốc cần theo chỉ dẫn của bác sỹ.

Một số biến chứng muộn sau mổ

Việc khám định kỳ sau mổ glôcôm không những ngăn chặn được tổn hại tiến triển của bệnh mà còn phát hiện và xử trí kịp thời những biến chứng muộn của phẫu thuật. Một số biến chứng muộn có thể xảy ra sau mổ glôcôm như:

+  Đục thể thuỷ tinh: gây giảm thị lực từ từ, có thể xử trí bằng phẫu thuật thay thể thuỷ tinh nhân tạo.

+ Viêm màng bồ đào: triệu chứng là nhìn mờ kèm đau nhức, cần phải đến ngay cơ sở y tế để được khám và điều trị.

+ Viêm mủ nội nhãn, nhãn viêm giao cảm: là những biến chứng nguy hiểm. Dấu hiệu là thị lực giảm sút nhanh kèm đau nhức dữ dội. Những biến chứng này cần xử trí cấp cứu vì nó thường để lại hậu quả vô cùng nặng nề, có thể phải bỏ mắt.

+ Vỡ dò sẹo bọng: đây cũng là biến chứng cần xử trí cấp cứu. Thường xảy ra trên những mắt có sẹo mổ quá bọng, mỏng, bệnh nhân thường thấy cộm nhiều. Khi thấy tại mắt có nước chảy ra nhiều hơn bình thường thì cần phải đến ngay cơ sở y tế để được mổ vá lại sẹo. Nếu không xử trí kịp thời thì sẹo dò vỡ sẽ là con đường thông thương giữa môi trường bên ngoài và nội nhãn gây viêm nội nhãn.

+ Phù hoàng điểm dạng nang: dấu hiệu là nhìn mờ. Biến chứng này chỉ cần điều trị nội khoa.

Xem thêm: Theo dõi đề phòng biến chứng sau mổ glocom

Glôcôm được phát hiện và điều trị sớm là một may mắn cho người bệnh. Tuy nhiên việc tuân thủ chế độ khám, theo dõi định kỳ sau mổ của những bệnh nhân glôcôm mới có thể bảo tồn được chức năng thị giác lâu dài cho họ. Có thể nói theo dõi bệnh glôcôm cho dù đã được điều trị bằng phẫu thuật là việc làm gắn liền với suốt cuộc đời người bệnh.              

Bệnh glôcôm là nguyên nhân gây mù mắt đứng hàng thứ 2 sau đục thủy tinh thể ở người lớn tuổi. Bệnh glôcôm hay còn gọi là bệnh cườm nước, rất nguy hiểm đối với mắt, gây tổn hại thần kinh và có thể gây mù vĩnh viễn. Người bệnh được điều trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật.

Để duy trì được hiệu  quả điều trị, đối với những bệnh nhân được bác sĩ chỉ định phẫu thuật, điều quan trọng và cần thiết nhất là phải biết những kiến thức về chăm sóc và theo dõi mắt sau phẫu thuật glôcôm.

Sau mổ việc chăm sóc và theo dõi mắt rất quan trọng, sự phục hồi sau mổ của đôi mắt phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: chế độ dinh dưỡng, vệ sinh mắt, điều trị thuốc theo đơn của bác sỹ. Nếu người bệnh không chăm sóc tốt mắt sẽ khiến cho mắt bị nhiễm trùng và gây biến chứng nguy hiểm.

Bệnh viện Mắt Sài Gòn

Ths.BS Hoàng Thị Hải Hà

Glôcôm là nguyên nhân thứ 3 gây mù sau đục thủy tinh thể và các bệnh đáy mắt. Vì thế, cần hiểu rõ, nhận biết triệu chứng sớm của bệnh để có giải pháp khám bệnh và chữa trị kịp thời.

Ai trong mỗi chúng ta cũng có lúc nhức mắt, nặng mắt, mờ mắt… thoáng qua. Tuy nhiên, đôi khi những triệu chứng này có thể là những triệu chứng sớm của bệnh Glôcôm (còn gọi là bệnh cườm nước, thiên đầu thống).

Tìm hiểu chung về bệnh Glôcôm

Qua điều tra RAAB (Rapid Assessment of Avoidable Blindnes) năm 2007, tỉ lệ mù hai mắt do Glôcôm ở người > 50 tuổi chiếm 6,5%. Trong các nguyên nhân gây mù hai mắt, bệnh Glôcôm đứng vị trí thứ 3 (chiếm 4%) sau bệnh đục thể thủy tinh (7,4%) và các bệnh bán phần sau (6,3%). Hiện Việt Nam có khoảng 24.800 người mù do Glôcôm.

Bệnh Glôcôm là một nhóm bệnh lý gây tổn hại thần kinh thị giác qua cơ chế làm tăng áp lực (nhãn áp) trong mắt. Nếu không chẩn đoán và điều trị kịp thời, thần kinh thị giác sẽ bị tổn thương ngày càng trầm trọng và cuối cùng dẫn đến tình trạng mất thị lực không hồi phục.

Xem thêm: Chăm sóc mắt sau mổ Glocom

Triệu chứng cơ bản có thể nhận biết sớm của bệnh Glôcôm

Bệnh Glôcôm có nhiều thể bệnh và nhiều nguyên nhân khác nhau, do vậy triệu chứng biểu hiện cũng rất khác nhau tùy thể loại bệnh. Trong đó, Glôcôm chủ yếu được chia làm 2 thể bệnh chính là Glôcôm góc đóng và Glôcôm góc mở. Nguy hiểm hơn, ở giai đoạn sớm của 2 thể bệnh này, triệu chứng biểu hiện không rõ ràng và thường bị bỏ qua.

– Nhức mắt, nặng mắt thoáng qua: bệnh Glôcôm xuất hiện âm thầm, tiến triển chậm trong thời gian dài, nhiều bệnh nhân không cảm thấy đau nhức mắt, một số trường hợp đôi khi thấy mắt căng tức nhẹ thoáng qua hoặc nhức quanh hốc mắt.

– Mờ mắt thoáng qua: ở giai đoạn sớm khi tình trạng nhãn áp tăng lên có thể làm nhìn mờ như sương mù hoặc nhìn nhòe trong 1 thời gian ngắn. Sau đó, khi áp lực mắt giảm xuống, bệnh nhân nhìn rõ trở lại, triệu chứng này có thể gặp ở nhiều bệnh khác nhưng mờ mắt thoáng qua xảy ra cùng lúc với nhức mắt là dấu hiệu nghi ngờ rõ nhất của bệnh Glôcôm.

– Nhìn thấy hào quang: khi nhãn áp tăng, bệnh nhân đôi khi sẽ thấy quầng sáng xanh đỏ khi nhìn vào đèn. Tình trạng này có thể kéo dài cả buổi và lập đi lập lại trong một khoảng thời gian.

– Nhức đầu: nhức đầu là triệu chứng của rất nhiều bệnh trong đó cao huyết áp là bệnh thường hay nghĩ đến hơn là bệnh Glôcôm. Vì vậy, khi các triệu chứng nhức đầu kèm theo nhức mắt, mờ mắt thì cần phải đi khám thêm bác sĩ chuyên khoa mắt để kiểm tra có bệnh Glôcôm kèm theo hay không.

Ngoài ra, người mắc bệnh Glôcôm có thể có thêm một số triệu chứng như:

– Nhìn đèn có quầng xanh đỏ, nhìn có đom đóm bay trước mắt.

– Thích nghi sáng tối kém, khó nhìn theo vật di động.

– Nhìn khuyết góc hoặc nhìn bị che lấp một phần.

– Đau nhức hốc mắt.

– Mất dần tầm nhìn ngoại vi: người bệnh có cảm giác như nhìn qua đường hầm.

– Mắt sưng đỏ, khi lấy tay di vào phần mí mắt trên thấy cứng như hòn bi.

– Nôn hoặc buồn nôn.

Thường thì trong giai đoạn đầu, các triệu chứng xuất hiện ít và khó phát hiện. Theo thời gian bệnh có thể tiến triển nặng lên gây suy giảm thị lực nghiêm trọng, thậm chí mù lòa.

Khuyến nghị

Khi có một hay cùng một lúc xuất hiện các triệu chứng trên, bệnh nhân cần đến ngay các cơ sở y tế có chuyên khoa mắt để kiểm tra, chẩn đoán bệnh. Bác sĩ sẽ cho đo thị lực, nhãn áp, khám thần kinh thị giác, soi góc tiền phòng và cho làm các chẩn đoán hình ảnh như đo thị trường, chụp hình ảnh đánh giá lớp sợi thần kinh… để xác định bạn có những tổn thương do Glôcôm hay không.

Những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ dễ mắc bệnh nêu trên cũng cần đi khám mắt định kỳ mỗi năm một lần để được phát hiện sớm bệnh Glôcôm.

Vì bệnh Glôcôm là bệnh gây giảm thị lực vĩnh viễn, do đó việc phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm (khi thần kinh thị giác chưa bị tổn thương nhiều) sẽ giúp bệnh nhân bảo tồn được thị lực tốt hơn.

Đối tượng dễ mắc bệnh Glôcôm

Glôcôm là bệnh không phân biệt lứa tuổi và chủng tộc. Tuy nhiên, một số nhóm người có nguy cơ cao dễ mắc bệnh và cần được kiểm tra mắt thường xuyên là:

– Người trên 40 tuổi;

– Người có bệnh tiểu đường hay tăng huyết áp;

– Người có tiền căn gia đình đã mắc bệnh Glôcôm;

– Người bị viễn thị, giác mạc (tròng đen) nhỏ;

– Người có tiền sử dùng thuốc nhóm steroid đường toàn thân hoặc tra mắt trong thời gian dài, cận thị nặng, có tiền căn chấn thương hay phẫu thuật mắt,…

Bệnh viện Mắt Sài Gòn

Ths.Bs Đỗ Minh Lâm

Video liên quan

Chủ đề