Chính sách đối ngoại nổi bật của Nhật Bản

Lời giải chính xác cho câu hỏi: “Chính sách đối ngoại của Nhật Bản?"cùng với kiến thức mở rộng do Top lời giải tổng hợp, biên soạn về môn Lịch sử 12 là tài liệu học tập bổ ích dành cho thầy cô và các bạn học sinh tham khảo.

Chính sách đối ngoại của Nhật Bản?

Giai đoạn 1945 – 1952: Chính sách đối ngoại của Nhật Bản là liên minh chặt chẽ với Mĩ, nhật kí kết hợp hiệp ước hòa bình Xan Phranxico và kết thúc chế độ chiếm đóng của đồng minh vào năm 1952.

Giai đoạn 1952 – 1973: Liên minh chặt chẽ với Mĩ và đến năm 1956 bình thường hóa quan hệ với Liên Xô.

Giai đoạn 1973 – 1991: Tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á và ASEAN.

Giai đoạn 1991 – 2000: Từ nửa sau những năm 70, Nhật Bản đã bắt đầu đưa ra những chính sách đối ngoại mới. Đó là tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á và ASEAN. Ngày 21/9/19673 thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

Kiến thức mở rộng về Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ 2

1. Kinh tế Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ 2

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật là nước bại trận, đất nước bị chiến tranh tàn phá, kinh tế khó khăn, mất hết thuộc địa, nghèo tài nguyên, thất nghiệp, thiếu nguyên liệu, lương thực và lạm phát. Sản xuất công nghiệp năm 1946 chỉ bằng 1/4 so với trước chiến tranh. Nhật phải dựa vào "viện trợ" kinh tế của Mỹ dưới hình thức vay nợ để phục hồi kinh tế.

Quá trình phát triển kinh tế Nhật trải qua các giai đoạn:

+1945 - 1950:Thời kỳ phục hồi kinh tế: kinh tế phát triển chậm chạp và phụ thuộc chặt chẽ vào kinh tế Mỹ.

+Từ tháng 6-1950, sau khi Mỹ phát động chiến tranh xâm lược Triều Tiên, kinh tế Nhật phát triển nhanh chóng nhờ những đơn đặt hàng quân sự của Mỹ.

+Từ những năm 60:do Mỹ sa lầy trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, kinh tế Nhật có cơ hội phát triển "thần kỳ", đuổi kịp rồi vượt các nước Tây Âu, vươn lên đứng hàng thứ 2 sau Mỹ trong thế giới TBCN.

+Từ những năm 70 trở đi:Nhật trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới, trở thành một siêu cường kinh tế. Nhiều người gọi là "Thần kỳ Nhật Bản".

Lễ kí kết Hiệp ước an ninh Mĩ - Nhật

Nguyên nhân của sự phát triển:

- Biết lợi dụng và thu hút nguồn vốn của nước ngoài, để tập trung đầu tư vào các ngành công nghiệp then chốt: cơ khí, luyện kim, hóa chất, điện tử ...

- Biết sử dụng có hiệu quả các thành tựu KH - KT để tăng năng suất, cải tiến kỷ thuật và hạ giá thành hàng hóa.

- Biết "len lách" xâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế.

_-Biên chế Nhà nước gọn nhẹ.

- Những cải cách dân chủ sau chiến tranh tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.

- Truyền thống "tự lực, tự cường" của nhân dân vươn lên xây dựng đất nước, cộng với tài điều hành kinh tế của giới kinh doanh và vai trò điều tiết của nhà nước.

* Nguyên nhân quan trọng nhất: Tận dụng thành tựu KHKT.

2. Văn hóaNhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ 2

- Nhật Bản tiếp tục trải nghiệmTây phương hóatrong thời kỳ hậu chiến, phần lớn xuất hiện trong thời kỳ chiếm đóng, khi lính Mỹ là một cảnh tượng phổ biến ở nhiều nơi trên đất nước. Âm nhạc và phim ảnh Mỹ trở nên phổ biến, thúc đẩy một thế hệ nghệ sĩ Nhật Bản, những người xây dựng trên cả ảnh hưởng của phương Tây và Nhật Bản.

- Trong thời kỳ này, Nhật Bản cũng bắt đầu nổi lên như một nhà xuất khẩu văn hóa. Giới trẻ trên khắp thế giới bắt đầu tiêu thụ phimkaiju(quái vật),anime(hoạt hình),manga(truyện tranh) và các văn hóa Nhật Bản hiện đại khác. Các tác giả Nhật Bản nhưYasunari KawabatavàYukio Mishimatrở thành những nhân vật văn học nổi tiếng ở Mỹ và Châu Âu. Những người lính Mỹ trở về từ sự chiếm đóng mang theo những câu chuyện và hiện vật, và các thế hệ quân đội Hoa Kỳ sau đây ở Nhật Bản đã góp phần tạo nên một mônvõ thuậtvà văn hóa khác từ đất nước này.

3. Chính trịNhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2

- Là nhà nước quân chủ lập hiến về hình thức, thực chất là dân chủ đại nghị (mọi quyền lực nằm trong tay 6 tập đoàn tài phiệt khổng lồ: Mitsubisi, Mitxưi, Sumitômô, Phugi, Đaichi, Sanma).

+ Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật tiến hành những cải cách dân chủ: cải cách ruộng đất, ban hành Hiến pháp (1946), xóa bỏ triệt để các tàn tích phong kiến, xử tội phạm chiến tranh. Nhờ đó đã phá vỡ những cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của chủ nghĩa phong kiến quân phiệt, tạo điều kiện để Nhật phát triển mạnh về mọi mặt.

+ Ngày nay, giới cầm quyền Nhật bắt đầu xâm phạm một số điều khoản của Hiến pháp 1946 (thu hẹp quyền tự do dân chủ, sửa đổi lại điều 9: không cho phép Nhật xây dựng lực lượng vũ trang và đưa quân đi tham chiến nước ngoài).

4. Khoa học kĩ thuật củaNhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ 2

- Sau chiến tranh thế giới thứ 2 Nhậtcó vị trí vững chãi trong lĩnh vực Khoa học – Kỹ thuật. Tập trung phát triển cơ sở nghiên cứu trong nước và phát minh nước ngoài. Đặc biệt, chú trọng vào điện dân dụng, ít chú tâm đến công nghiệp quân sự, vũ trụ. Đến nay Nhật còn là thị trường công nghiệp thông tin lớn nhất chỉ xếp sau Mỹ, Trung Quốc.

- Ngành công nghiệp ICT đang là ngành lớn nhất và tiên tiến. Được phát triển mạnh mẽ nhanh chóng sau chiến tranh thế giới thứ 2. Chính phủ Nhật khuyến khích thành lập dự án, hạn chế vốn đầu tư nước ngoài. Ngành công nghiệp ICT có mức phát triển 20% trong 10 năm liên tục từ năm 1955 – 1965. Đến năm 1990 sự thống trị Nhật ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu. Trong số, 20 nhà sản xuất chất bán dẫn lớn nhất Nhật chiếm 55% tổng doanh thu.

Từ sau chiến tranh Thế giới thứ II, Nhật bản đã tiến hành những chính sách ngoại giao tương đối năng động, khôn khéo và thận trọng. Cùng với sự phát triển thành công về kinh tế, chính sách đối ngoại đã góp phần đáng kể nâng cao vị trí của Nhật bản trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.

Sau chiến tranh thế giới thứ II, chính sách đối ngoại của Nhật Bản được bắt đầu với Học thuyết Yoshida theo đó Nhật Bản dựa hoàn toàn vào Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ để phòng thủ đất nước và tập trung sức phát triển kinh tế.

Chính sách đối ngoại của Nhật Bản giai đoạn thập kỷ 60 được đặc trưng bởi chính sách ngoại giao kinh tế nhằm phục vụ cho nhu cầu đuổi kịp và vượt các nước phát triển khác. Mục tiêu này đã đạt được vào cuối những năm 60 khi Nhật Bản trở thành cường quốc thứ hai về kinh tế trong hệ thống tư bản chủ nghĩa.

Đầu thập kỷ 70, tình hình quốc tế có những thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ vừa tạo điều kiện vừa thúc đẩy Nhật bản đóng một vai trò quốc tế quan trọng hơn. Trong bối cảnh đó, học thuyết Fukuda ra đời năm 1977 đã đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nhật, trước hết là đối với khu vực Đông Nam Á.

Chính sách đối ngoại của Nhật trong thập kỷ 80 tiếp tục mang tính chủ động hơn, nhất là dưới thời kỳ Thủ tướng Nakasone nắm quyền. Từ năm 1985, với việc nâng giá đồng yên, Nhật bản tăng cường ảnh hưởng kinh tế trong khu vực châu A’ với mô hình đàn sếu bay với ý đồ trở thành đầu tầu cho sự phát triển kinh tế ở đây.

Chính sách đối ngoại của Nhật trong thập kỷ 90 được đặc trưng bởi việc củng cố quan hệ với Mỹ qua việc ký Tuyên bố chung về “An ninh Nhật-Mỹ trong thế kỷ 21” năm 1996 và đưa ra Phương châm phòng thủ mới Nhật-Mỹ vào năm 1997.

Bước vào thế kỷ 21, với những diễn biến phức tạp của cuộc chiến tranh chống khủng bố và tình hình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên, Nhật Bản tiếp tục chính sách ủng hộ mạnh mẽ Mỹ và tăng cường khả năng tự vệ của mình.

QUAN HỆ NHẬT-MỸ

Sau khi bị Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki vào tháng 8-1945, nước Nhật đã phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện và bị đặt dưới sự chiếm đóng của quân đội Liên hiệp quốc mà thực chất là của quân đội Mỹ. Ban đầu Mỹ bắt chính phủ Nhật Bản thực hiện các chính sách như giải tán chế độ quân phiệt, phủ nhận việc thần thành hoá vai trò của Thiên Hoàng, ân xá cho các tội phạm chính trị, tịch thu ruộng đất của địa chủ v.v… nhằm không để Nhật Bản quay trở lại chủ nghĩa quân phiệt. Tuy nhiên, do phát sinh cuộc chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô(cũ), nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời tuyên bố đi theo Chủ nghĩa Xã hội và đặc biệt do bùng nổ cuộc chiến tranh Triều Tiên nên Mỹ đã thay đổi chính sách đối với Nhật Bản như chấp nhận cho Nhật Bản có lực lượng phòng vệ và hỗ trợ về mặt kinh tế.

Năm 1951, việc Nhật Bản và Mỹ kí kết bản “Hiệp ước Sanfransisco” và tiếp đó kí “Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ” đã đánh dấu sự quay trở lại xã hội quốc tế của Nhật Bản đồng thời cũng biến Nhật Bản thành căn cứ “chống cộng” ở Châu Á, kể từ đó trở đi Mỹ luôn là đồng minh số một của Nhật Bản và chính sách đối ngoại của Nhật Bản luôn phù hợp với chiến lược toàn cầu của Mỹ. Điều này luôn được thể hiện rõ trong sách xanh ngoại giao của Nhật Bản xuất bản hàng năm “ Mối quan hệ hợp tác hữu nghị với Mỹ dựa trên Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ là trục chính của ngoại giao Nhật Bản, sự hợp tác này được thực hiện trong các lĩnh vực mà trước hết là trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự. Mỹ là đối tác quan trọng của Nhật Bản”.

Không chỉ trong lĩnh vực chính trị mà quan hệ kinh tế Nhật-Mỹ cũng rất lớn. Kể từ những năm 60 trở đi Mỹ luôn là bạn hàng số một của Nhật Bản với lượng kim ngạch buôn bán tăng hết sức nhanh. Ví dụ, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa hai nước đã đạt 184,29 tỉ USD vào năm 2001, trong đó Nhật Bản xuất siêu 58,11 tỉ USD.

Tuy nhiên quan hệ Nhật-Mỹ không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, chẳng hạn khi Mỹ bí mật đàm phán với Trung Quốc về bình thường hoá ngoại giao đã làm cho giới lãnh đạo Nhật Bản cảm thấy bị đồng minh phản bội, hoặc những va chạm về mậu dịch cũng không ít lần gây ảnh hưởng cho quan hệ giữa hai nước. Mặc dù vậy có thể nói rằng hai nước vẫn sẽ duy trì là những đồng minh bền vững của nhau vì lợi ích an ninh và kinh tế của hai nước trong thế kỉ 21.

QUAN HỆ NHẬT-TRUNG

Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, quan hệ Nhật-Trung rơi vào tình trạng đối đầu do chịu ảnh hưởng của cuộc chiến tranh lạnh, mặc dù không ít lần giới lãnh đạo hai nước tìm cách bình thường hoá quan hệ ngoại giao song đều vấp phải sự cản trở của Mỹ. Vì vậy cho đến khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao vào năm 1972, quan hệ giữa hai nước chỉ được duy trì qua kênh mậu dịch. Song, việc Mỹ bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc đã tạo điều kiện để hai nước bình thường hoá quan hệ, tháng 9-1972, thủ tướng Nhật Bản Tanaka và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã kí vào bản tuyên bố chung đánh dấu sự chấm dứt đối đầu giữa hai nước.

Sau khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao, quan hệ giữa hai nước phát triển nhanh chóng nhất là trên lĩnh vực kinh tế nhưng do vào thời điểm này Mỹ vẫn chưa thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc nên quan hệ Nhật-Trung vẫn còn nhiều hạn chế và chỉ từ những năm cuối của thập kỉ 70 khi Mĩ và Trung Quốc chính thức kí hiệp định thiết lập quan hệ ngoại giao thì quan hệ Nhật-Trung mới phát triển một cách toàn diện hơn. Với quan điểm “ sự ổn định và phát triển của Trung Quốc có ý nghĩa rất lớn đối với sự ổn định và phát triển của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương”và “thị trường khổng lồ của Trung Quốc là rất cần cho nền kinh tế dựa vào ngoại thương” của Nhật Bản và quan điểm “vốn và kĩ thuật của Nhật Bản rất cần đối với phát triển kinh tế” của Trung Quốc chính là nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển mạnh mẽ như vậy.

Trong lĩnh vực kinh tế hai nước nhanh chóng trở thành những đối tác quan trọng của nhau, Nhật Bản đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc và Trung Quốc cũng đã vươn lên thành bạn hàng lớn thứ hai của Nhật Bản sau Mỹ. Chẳng hạn năm 2001 kim ngạch ngoại thương hai chiều giữa Nhật Bản và Trung Quốc đạt 88,89 tỉ USD chiếm xấp xỉ khoảng 20% tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc. Ngoài ra còn một điểm nổi bật trong quan hệ kinh tế giữa hai nước là việc Nhật Bản tiến hành viện trợ ODA rất lớn cho Trung Quốc. Mặc dù là nước nhận được viện trợ ODA tương đối muộn so với các nước, nhưng cho đến nay Trung Quốc là nước nhận được nhiều viện trợ lớn thứ hai của Nhật Bản sau Indonesia với điều kiện ưu đãi hơn các nước khác là được viện trợ theo từng kế hoạch 5 năm của Trung Quốc, điều này đã góp phần rất lớn vào việc phát triển kinh tế của Trung Quốc.

Mặc dù vậy quan hệ Nhật-Trung cũng còn tồn tại nhiều vấn đề đã và sẽ còn tác động vào quan hệ giữa hai nước như vấn đề sách giáo khoa lịch sử, vấn đề lãnh thổ, vấn đề Đài Loan và gần đây là va chạm kinh tế. Cho dù hiện nay chính phủ hai nước cố gẵng làm dịu những vấn đề này bằng những nhượng bộ lẫn nhau, nhưng trong thời gian tới khi Trung Quốc đã thực sự trở thành một cường quốc kinh tế và quân sự thì liệu Trung Quốc còn nhượng bộ nữa hay không? cho nên không phải ngẫu nhiên mà ở Nhật Bản đã xuất hiện thuyết “ sự đe doạ của Trung Quốc”. Do đó, quan hệ giữa hai nước trong tương lai sẽ như thế nào phụ thuộc rất lớn vào nhân tố Trung Quốc nhưng cũng có thể khẳng định rằng nước Mỹ vẫn sẽ còn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì quan hệ giữa hai nước

QUAN HỆ NHẬT-NGA

Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản đã cố gắng bình thường hoá quan hệ với các nước đặc biệt là các nước lớn nhằm quay trở lại xã hội quốc tế cũng như xúc tiến buôn bán để khôi phục kinh tế. Song, khi xem xét quan hệ của Nhật Bản với các nước lớn, ta dễ dàng nhận thấy quan hệ Nhật-Nga là một trường hợp “ngoại lệ” mà phía Nhật Bản tỏ ra khá thờ ơ cho đến cả hiện nay cho dù xét về phương diện chính trị hay kinh tế thì Liên Xô trước đây hoặc nước Nga hiện nay đều có lợi đối với Nhật Bản.

Nếu nói đến nguyên nhân của nó, có lẽ không thể chỉ đơn thuần nêu ra ảnh hưởng của cuộc chiến tranh lạnh mà còn phải chỉ ra những nguyên nhân sâu xa hơn như: Thứ nhất, là vấn đề tranh chấp lãnh thổ tại 4 hòn đảo trên quần đảo kuril mà cho đến nay hai bên cũng chưa giải quyết được và thứ hai là, có lẽ giới lãnh đạo Nhật Bản nói riêng cũng như người dân Nhật Bản vẫn chưa tin tưởng vào người Nga qua việc Nga đơn phương huỷ bỏ Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau được kí trong chiến tranh thế giới lần thứ hai để mở cuộc tấn công quân đội Nhật Bản ở vùng Đông bắc Trung Quốc. Trong đó vấn đề lãnh thổ mới là nguyên nhân chính khiến cho quan hệ giữa hai nước không tiến triển mấy.

Về quan hệ chính trị, từ đầu thập kỉ 50 để giảm áp lực của Mỹ đối với Liên Xô thông qua Nhật Bản, phía Liên Xô đã muốn kí Hiệp ước hoà bình, hữu nghị với Nhật Bản trước khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao, nhưng do Nhật Bản chỉ đồng ý bình thường hoá quan hệ trước nên tháng 5-1956 hai bên đã kí hiệp định tuyên bố bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Sau đó, đã nhiều lần Liên Xô trước đây và nước Nga hiện nay yêu cầu Nhật Bản kí Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và thường đưa ra điều kiện là trả cho Nhật 2 trong số 4 hòn đảo nhưng Nhật Bản lại yêu cầu phải trả lại cho Nhật Bản cả 4 hòn đảo thì mới kí Hiệp ước. Vì vậy, cho đến nay dù đã có nhiều chuyến thăm nhau của lãnh đạo hai nước để bàn về vấn đề này nhưng chưa có kết quả. Cũng giống như quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế giữa hai nước cũng không mấy khả quan cho dù Nga là thị trường lớn, chẳng hạn năm 2002 kim ngạch ngoại thương hai chiều chỉ đạt 530 tỉ Yên, còn đầu tư của Nhật Bản mới chỉ vẻn vẹn có 400 triệu Yên. Con số này cho thấy tốc độ phát triển kinh tế giữa hai nước kém xa với các nước khác.

Trong thời gian tới, quan hệ hai nước sẽ vẫn tiến triển hơn song, tiến triển đến mức độ nào còn phụ thuộc vào nỗ lực của hai bên, đặc biệt là Nga có trao trả các hòn đảo cho Nhật Bản hay không.