Chiến lược phát triển giáo dục là gì

Quan điểm trong Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 như thế nào? Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045? Tôi có nhu cầu tìm hiểu, xin được biết.

Quan điểm trong Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 như thế nào?

Căn cứ Mục I Điều 1 Quyết định 2239/QĐ-TTg năm 2021 quy định về quan điểm như sau:

1. Phát triển giáo dục nghề nghiệp là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong phát triển nguồn nhân lực để tranh thủ thời cơ dân số vàng, hình thành nguồn nhân lực trực tiếp có chất lượng, hiệu quả và kỹ năng nghề cao, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

2. Phát triển giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, hội nhập, chú trọng cả quy mô, cơ cấu, chất lượng đào tạo; quan tâm đầu tư, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để phát triển một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp, ngành, nghề đào tạo đạt trình độ tương đương với khu vực và thế giới.

3. Phát triển giáo dục nghề nghiệp bám sát nhu cầu của thị trường lao động gắn kết với việc làm thỏa đáng, an sinh xã hội và phát triển bền vững, bao trùm; phát huy tối đa năng lực, phẩm chất của người học; thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.

4. Nhà nước có chính sách từng bước phổ cập nghề cho thanh niên; ưu tiên phân bổ ngân sách cho giáo dục nghề nghiệp trong ngân sách giáo dục - đào tạo và trong các chương trình, dự án của ngành, địa phương; tăng cường xã hội hóa giáo dục nghề nghiệp ở những địa bàn, ngành, nghề phù hợp.

5. Phát triển giáo dục nghề nghiệp là trách nhiệm của các cấp chính quyền, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và người dân; được chú trọng trong các kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển ngành, địa phương.

Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045?

Theo Tiểu mục 1 Mục II Điều 1 Quyết định 2239/QĐ-TTg năm 2021 quy định về mục tiêu tổng quát như sau:

1. Mục tiêu tổng quát

Phát triển nhanh giáo dục nghề nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường lao động, của người dân và yêu cầu ngày càng cao về số lượng, cơ cấu, chất lượng nhân lực có kỹ năng nghề cho phát triển đất nước trong từng giai đoạn.

Tại hội thảo, các đại biểu đã đóng góp ý kiến về dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó tập trung vào một số nội dung như: Tình hình phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020, kết quả đạt được, những hạn chế và phân tích nguyên nhân; chiến lược phát triển giáo dục 2021-2030 với bối cảnh, thời cơ và thách thức, quan điểm chỉ đạo, tầm nhìn đến năm 2045, mục tiêu phát triển, và nhiệm vụ giải pháp.

Thành tựu của giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011-2020 được xem xét toàn diện trên các khía cạnh như: thể chế và công tác quản lý; tiếp cận và công bằng, chất lượng, nhân lực ngành giáo dục; nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất; ứng dụng công nghệ thông tin; nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ.

Bên cạnh đó, các đại biểu cũng trao đổi, đóng góp ý kiến về nguyên nhân, hạn chế của giáo dục giai đoạn 2011-2020, những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn.

Tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc nhấn mạnh vai trò của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam trong việc xây dựng Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Dự thảo Chiến lược được xây dựng dựa trên kết quả phân tích ngành và cũng đưa ra bộ chỉ số đánh giá chiến lược giai đoạn 2021-2030.

Theo dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 đưa ra mục tiêu tổng quát về phát triển giáo dục đến năm 2030 là phát triển toàn diện con người Việt Nam.

Đồng thời, phát huy tối đa tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, làm nền tảng cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đất nước phồn vinh và hạnh phúc; xây dựng hệ thống giáo dục mở, phục vụ học tập suốt đời, công bằng và bình đẳng, theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế.

Để tiếp tục hoàn thiện dự thảo, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc đề nghị ban soạn thảo tiếp thu các ý kiến đóng góp của các chuyên gia về giáo dục để hoàn thiện “Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Cùng với đó, các đơn vị chức năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam rà soát, bổ sung dữ liệu thống kê và thông tin phân tích ngành để làm căn cứ xây dựng các mục tiêu, chỉ số cụ thể của chiến lược.

Theo nhận định của GS.TS Lê Ngọc Trà, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu giáo dục của Trường đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh thì c tiêu, giải pháp nêu ra trong bản dự thảo chiến lược đều không rõ ràng và là cách làm của mấy mươi năm trước”.

Chiến lược phát triển giáo dục là gì
Phóng toHọc sinh Trường THCS Nguyễn Du, Quận Gò Vấp, TP.HCM trong giờ học tiếng Anh - Ảnh Minh Đức

Phải chăng những người đang xây dựng bản dự thảo chiến lược phát triển giáo dục chưa vượt qua được những nguyên nhân yếu kém, giống như người bị lún vào vũng sình lầy thì không thể tự kéo đầu mình lên để thoát thân được. Nếu đúng như vậy, giải pháp đầu tiên là phải nhờ người khác kéo ta ra khỏi vũng sình lầy, sau đó mới nói đến việc xây dựng chiến lược phát triển giáo dục quốc gia.

Hầu như mọi người đều không hài lòng về thực trạng của nền giáo dục của nước ta, từ giáo dục mầm non, tiểu học cho đến bậc cao đẳng đại học, từ đào tạo dạy nghề đến giáo dục phổ thông, cả giáo dục sau đại học.

Trong mấy chục năm qua, đã có bao lần chúng ta cải cách giáo dục, nhưng hình như kết quả không có gì tiến triển. Hàng năm, cứ đến mùa thi cử, mùa ra trường của sinh viên hay mùa khai giảng lại có hàng loạt bài báo ta thán, nêu nào đề thi lại sai, nào sinh viên tốt nghiệp ra trường khó có việc làm vì trình độ và nội dung học không phù hợp hay không theo kịp yêu cầu của xã hội.

Trong khi đó, phụ huynh học sinh lại kêu chương trình học quá nặng nề, việc học thêm dạy thêm bổ sung cho thời gian học tại lớp tràn lan ở mọi cấp lớp, làm ảnh hưởng đến sự phát triển tâm sinh lý của học sinh ở lứa tuổi trưởng thành.

Theo nhận xét của bản dự thảo phát triển giáo dục, sự yếu kém trên do các nguyên nhân chính sau:

  1. Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu chưa thực sự được quán triệt đúng mức ở các cấp quản lý và chỉ đạo giáo dục.
  1. Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế.
  1. Công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập.

Với ba nguyên nhân nêu trên, có thể nhận thấy rằng: nguyên nhân thứ nhất là do yếu tố con người (trách nhiệm, khả năng nhận thức kém). Nguyên nhân thứ hai và thứ ba là do xác định mục tiêu giáo dục chưa phù hợp với yêu cầu của thời đại (tư duy giáo dục thiếu đổi mới, tư tưởng bảo thủ lạc hậu so với thời cuộc).

Đương nhiên, nguyên nhân đưa đến sự yếu kém của nền giáo dục còn nhiều, trong đó có những nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài hàng chục năm trên đất nước ta, đã buộc các nhà lãnh đạo vào thời kỳ đó phải tìm mọi công cụ để chống trả, hướng dẫn nhân dân tập trung sức mạnh, nhìn theo một hướng, tư duy theo một chiều để tạo sức mạnh tập trung nhằm đạt đến mục tiêu thắng lợi cuối cùng.

Hay một nguyên nhân sâu xa khác, nhưng rất gần, rất thiết thân là có những người cảm thấy bị thiệt thòi, bị mất mát bởi nhiều lý do khác nhau trong quá khứ, hay bị hoàn cảnh nghèo khổ dai dẳng trước đây, nay lại không yên tâm trong cuộc sống hiện tại, do đó buộc người ta tìm mọi cách để thủ thân, tranh thủ mọi cơ hội, mọi công cụ để vươn lên trong xã hội, cho riêng mình, cho con cháu đời sau. Từ đó công cụ nào, phương tiện nào để đạt được mục đích đều được người ta không ngần ngại nắm lấy để vào đời, vào cuộc.

Nếu thang bậc xã hội dựa trên lý lịch để thăng tiến thì người ta phải cố gắng làm việc sao cho con cháu có một bộ lý lịch tốt. Nếu xã hội lấy bằng cấp làm thước đo thì phải cho con cháu có bằng cấp bằng mọi cách, kể cả mua. Thậm chí con đường trực tiếp nhất là tích lũy của cải cũng có thể mạo hiểm đánh cược cuộc đời, có hy sinh đời bố củng cố đời con thì cũng không từ nan.

Đây là một thực tại xã hội, là nguyên nhân sâu xa đã làm cho xã hội chúng ta phát triển một cách méo mó, dở cười dở khóc. Cười là vì đời sống kinh tế của mọi người đã không ngừng được cải thiện, nhưng lại phải khóc bởi đạo đức xã hội càng ngày càng suy đồi. Những con bệnh như tham nhũng, mua quan bán chức, bằng thật học giả, học sinh “ngồi nhầm” lớp, thầy dạy “nhầm” kiến thức, các cơ quan công quyền, doanh nghiệp trên dưới đều phải thỏa hiệp, thậm chí luồn cúi để được việc cho riêng mình… Các hiện tượng trên đều có nguồn gốc từ nguyên nhân sâu xa vừa nói.

Vai trò thiêng liêng của giáo dục là đào tạo nên con người, nhưng trước thực trạng của thời cuộc, chúng ta cần nhìn ra các tiền đề ràng buộc khách quan của giáo dục như sau:

- Con người mới được sinh ra và lớn lên trong lòng xã hội nên bị ảnh hưởng bởi bản chất của xã hội đó một cách tự nhiên.

- Con người mới phải được nuôi dưỡng, giáo dục sao cho ngày càng hoàn thiện hơn về mọi mặt để làm cho xã hội ngày càng tiến bộ văn minh hơn. Đó là trách nhiệm của giáo dục.

- Kiến thức con người của hệ thống giáo dục đương đại phần lớn được hình thành từ xã hội trước đó.

Từ những tiền đề ràng buộc có tính khách quan như trên, một số nhận thức mà ngành giáo dục phải có là:

1- Những người làm công tác giáo dục phải là người có tư duy sáng tạo, luôn tìm ra cái mới tích cực hơn. Nếu không có điều kiện này thì họ chỉ dạy những điều mà xã hội cũ đã dạy cho họ, như thế sẽ không phù hợp cho ngành giáo dục.

2- Để có tư duy sáng tạo thì xã hội, nhà nước phải tạo điều kiện để các nhà giáo cần được tự do tư duy và không ngừng cập nhật thông tin, cập nhật kiến thức, tiếp cận với cái mới.

3- Bản thân người làm công tác giáo dục phải là một chuẩn mực trong cuộc sống, cả về vật chất lẫn tinh thần. Họ phải là tấm gương cho lớp người mới tiếp cận noi theo để rèn luyện tinh thần đạo đức con người của xã hội mới tốt đẹp hơn (cơ chế đảm bảo cho cuộc sống chuẩn mực).

4- Nội dung giáo dục không những nhắm vào lớp người vừa sinh ra và trong độ tuổi tiếp nhận giáo dục mà còn có chức năng cải tạo con người đương thời. Do đó luật pháp xã hội không được khác với nội dung tinh thần giáo dục, không dung dưỡng những tệ nạn xã hội.

5- Giáo dục phải đồng thời làm tốt hai nhiệm vụ là:

- Rèn luyện tư duy, hình thành chuẩn mực giá trị nhân cách đạo đức xã hội, cũng như ý nghĩa, lẽ sống của con người.

- Đào tạo kiến thức, kỹ năng tổ chức cuộc sống cho bản thân, cho gia đình, cho cộng đồng xã hội.

Từ những nhận định nêu trên, có thể xác định được mục tiêu nội dung cũng như vai trò chức năng cơ bản xuyên suốt của ngành giáo dục. Qua đó, theo điều kiện khả năng thực sự của đất nước về nguồn nhân lực, tài chính, dựa vào những yêu cầu trước mắt hay từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mà đặt ra kế hoạch thực hiện mục tiêu giáo dục tương ứng, sau đó mới phác họa được nội dung chiến lược phát triển giáo dục của nước ta.

Một chiến lược phát triển giáo dục phải có mục tiêu to lớn toàn diện nhằm giải quyết những vấn đề yếu kém cơ bản có nguyên nhân sâu xa như đã nêu trên. Đồng thời cần có những kế hoạch thực hiện nhằm giải quyết từng mục tiêu cụ thể theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Một chiến lược có thể thực hiện trong 15 năm, 25 năm hay lâu hơn và thực hiện bằng nhiều kế hoạch cụ thể được chia theo giai đoạn thời gian và được chỉ đạo theo nội dung phương án, trong đó có kế hoạch năm năm tới, hay từ nay đến năm 2020 với những chỉ tiêu cụ thể.

Bên cạnh đó có những phương án đào tạo lực lượng lao động cho nền kinh tế, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý cho mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực, cho đất nước trong tương lai, nhằm xây dựng nên hình ảnh con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam, một đất nước Việt Nam theo đúng “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.

Trở lại bản dự thảo chiến lược phát triển giáo dục, nhóm tác giả có nêu những nguyên nhân tạo nên sự yếu kém của nền giáo dục nước ta mấy chục năm qua, nhưng tiếc thay khi đưa ra những giải pháp thì không thấy đề ra hướng khắc phục. Phải chăng những người đang xây dựng bản dự thảo chiến lược phát triển giáo dục chưa vượt qua được những nguyên nhân yếu kém vừa được đề cập đến, giống như người bị lún vào vũng sình lầy thì không thể tự kéo đầu mình lên để thoát thân được.

Điều này giải thích tại sao chúng ta đã làm nhiều cuộc cải cách giáo dục trong mấy chục năm qua nhưng vẫn chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém bất cập so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nếu đúng như vậy, giải pháp đầu tiên là phải nhờ người khác kéo ta ra khỏi vũng sình lầy, sau đó mới nói đến việc xây dựng chiến lược phát triển giáo dục quốc gia.

Chiến lược phát triển kinh tế là gì?

Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là một bộ phận của chính sách kinh tế xã hội nhằm xác định mục tiêu cơ bản, lâu dài phù hợp với nhiệm vụ trước mắt của sự phát triển và các phương tiện, biện pháp để thực hiện mục tiêu đó.

Chiến lược phát triển sau là gì?

Chiến lược phát triển theo chiều sâu: Là việc nâng cao chất lượng hiệu quả của thị trường được đánh giá theo một vài tiêu chí như sự uy tín của doanh nghiệp, tỷ suất lợi nhuận, doanh thu, khả năng thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.

Mục đích của nền giáo dục Việt Nam là gì?

Mục tiêu giáo dục ở nước ta là nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo ...

Sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam như thế nào?

“Trong bảng xếp hạng các quốc gia về lĩnh vực giáo dục năm 2021, Việt Nam xếp thứ 59, tăng 5 bậc so với năm 2020. Đặc biệt, trong nhiều năm qua, các đoàn học sinh nước ta tham dự các kỳ thi Olympic quốc tế luôn đạt những thành tích cao, góp phần khẳng định vị thế của nền giáo dục Việt Nam trên thế giới.