Các nhà toán học việt nam qua các triều đại năm 2024

Lý Nhân Tông, Hồ Quý Ly, Quang Trung - Nguyễn Huệ là 3 trong số những vị vua có nhiều cải cách đối với nền giáo dục nước nhà.

Kỳ thi nho học cuối cùng của nước ta được tiến hành dưới thời vua Khải Định năm 1919. Tính từ kỳ thi đầu tiên (1075) đến kỳ thi cuối cùng, các triều đại phong kiến Việt Nam đã tổ chức tổng cộng 184 kỳ thi, lấy 2.785 người đỗ đại khoa (tiến sĩ trở lên).

Lý Nhân Tông khởi xướng nền giáo dục nước nhà

Nhà Lý là triều đại phong kiến đầu tiên ở Việt Nam xác lập hệ thống giáo dục khoa cử có hệ thống. Năm 1070, nhà Lý cho xây dựng nhà Văn Miếu ở Thăng Long, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công, tứ phối 72 người hiền của đạo Nho. Năm 1076, vua Lý Nhân Tông lập ra Quốc Tử Giám, để đào tạo con em quý tộc.

Cùng việc mở Quốc Tử Giám, nhà Lý quan tâm tới việc tổ chức thi cử để lựa chọn nhân tài mà các triều đại trước đó chưa thực hiện. Khoa thi đầu tiên được nhà Lý tổ chức vào tháng 2 năm 1075, niên hiệu Thái Ninh thời vua Lý Nhân Tông, gọi là thi Minh kinh bác học.

Lê Văn Thịnh, người làng Báo Tháp xã Đông Cứu (nay thuộc huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh), đỗ đầu cùng hơn 10 người trúng tuyển. Ông trở thành thủ khoa đầu tiên trong lịch sử.

Với việc mở ra kỳ thi Minh kinh bác học, vua Lý Nhân Tông đã đi vào lịch sử dân tộc với tư cách là vị vua đầu tiên xác lập nên nền giáo dục và khoa cử nước nhà.

Hồ Quý Ly đưa Toán học vào thi cử

Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhà Hồ (1400-1407) đã có nhiều cải cách trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có giáo dục. Ngay từ khi chưa làm vua, Hồ Quý Ly đã rất quan tâm đến giáo dục và thi cử thời kỳ này.

Các nhà toán học việt nam qua các triều đại năm 2024
Một lớp học chữ Nho tư gia vào khoảng năm 1895. Ảnh: Wikipedia.

Năm 1396, ông cho sửa lại chế độ thi cử đặt kỳ thi hương ở địa phương và thi hội ở kinh thành. Những người đã thi hội thì phải làm thêm một bài văn do vua đề ra để định vị thứ bậc. Ông cũng cho bỏ trường thi ám tả cổ văn thay bằng thi kinh nghĩa trong 4 trường thi, đặt thêm trường thứ năm thi viết chữ và Toán.

Như vậy, với những cải cách này, Hồ Quý Ly chính là người đầu tiên đưa Toán học vào nội dung thi cử thời phong kiến. Đây rõ ràng là quyết định rất tiến bộ so với bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ.

Ngay sau khi mới lên ngôi, Hồ Quý Ly đã mở khoa thi để tuyển chọn người tài năm 1400, chọn được 20 người, trong đó Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh, xếp hạng thứ tư.

Hồ Quý Ly cũng là vị vua góp công lớn hoàn thiện thi cử thời phong kiến. Theo Ngô Thì Sĩ, “phép khoa cử đến đây mới đủ văn tự bốn trường, đến nay còn theo, không thay đổi được”.

Nguyễn Huệ lấy chữ Nôm thay chữ Hán

Quang Trung - Nguyễn Huệ, với tầm nhìn xa, trông rộng của một thiên tài, đã có nhiều cải cách, nhằm giúp đất nước hùng cường. Cải cách đầu tiên của vua Quang Trung về mặt giáo dục là khôi phục vai trò của chữ Nôm, vốn đã bị mai một từ sau khi nhà Hồ sụp đổ.

Vua cho lập Sùng Chính viện, mời La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp làm viện trưởng, chuyên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm làm tài liệu học tập và giúp vua về mặt văn hóa. Mục đích của Quang Trung là nhằm đưa chữ Nôm lên thành quốc ngữ chính thức thay cho chữ Hán.

Chữ Nôm được đưa vào khoa cử, các kỳ thi quan trường phải ra đề thi bằng chữ Nôm, người thi đến kỳ tam trường phải làm thơ, phú bằng văn Nôm. Chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của quốc gia dưới triều Quang Trung, một thành quả quan trọng trong lịch sử đấu tranh và bảo tồn nền văn hoá dân tộc, chống chính sách đồng hóa của các triều đại phương Bắc đô hộ nước ta.

Nhờ sự khuyến khích của vua Quang Trung, văn chương sáng tác bằng chữ Nôm thời này phát triển rất mạnh. Nhiều tác phẩm có giá trị ra đời như Hoa Tiên truyện, Mai Đình mộng ký, Chinh phụ ngâm, các tác phẩm của Hồ Xuân Hương…

Những cải cách về giáo dục của Quang Trung đã chứng minh cho ước nguyện xây dựng một nền giáo dục mang đậm bản sắc dân tộc, nâng cao ý thức độc lập, tự cường cho nhân dân, nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng sau chiến tranh kéo dài để vươn lên sánh vai cùng các quốc gia phát triển đương thời.

Kỳ thi 'Minh kinh bác học' đầu tiên của nước Đại Việt Năm 1075, vua Lý Nhân Tông lần đầu tiên cho tuyển chọn quan lại thông qua kỳ thi nhằm tìm ra người có tài phục vụ đất nước.

Cải cách giáo dục Toán học thi cử thời phong kiến Quang Trung Hồ Quý Ly Lý Nhân Tông

Vũ Hữu (chữ Hán: 武有, 1437–1530) là một nhà toán học người Việt, và cũng là một danh thần dưới triều đại Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông. Ông còn được coi là nhà toán học đầu tiên của Việt Nam.

Tiểu sử, sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Ông người làng Mộ Trạch, tổng Thì Cử, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay là làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Năm Quang Thuận thứ 4 đời vua Lê Thánh Tông (Quý Mùi 1463), ông đỗ Hoàng giáp.

Vũ Hữu đã kinh qua các chức vụ như Khâm hình viện lang trung, Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Lễ trong triều đình nhà Hậu Lê, sau được tặng phong Thái bảo. Mặc dù về hưu năm 70 tuổi, đển năm 90 tuổi (1527), ông vẫn được vua tin dùng, sai mang cờ tiết đi phong vương cho Mạc Đăng Dung. Khi đó ông có tước là Tùng Dương hầu.

Công trình toán học[sửa | sửa mã nguồn]

Công trình toán học ông để lại cho hậu thế nổi bật là Lập Thành Toán Pháp (立 成 算 法). Sách này gồm cách đo ruộng, tính diện tích ruộng; hình vẽ các thửa ruộng có hình phức tạp và cách tính diện tích loại ruộng này; cách tính bằng bàn tính, bằng phép cửu chương, cửu quy; một số bài tính đố, có cho biết đáp số. Các phép đo ruộng đất được tính theo đơn vị mẫu, sào, thước (24 mét vuông) và tấc (1/10 thước).

Sách Công dư tiệp ký ghi lại câu chuyện sau: Vua Lê Thánh Tông muốn thử tài của Vũ Hữu, nên đã giao cho ông sửa chữa ba cửa Đoan Môn, Đại Hưng và Đông Hoa của thành Thăng Long. Tuân lệnh, Vũ Hữu dùng thước đo chiều cao, chiều dài, chiều rộng của các cửa thành và tính ra số gạch đá, vật liệu phải dùng. Kết quả là khi xây xong, đá không thừa một tấc, gạch không thiếu một viên, quy mô các cửa thành được sửa chữa không sai một ly, một tấc. Vua Lê Thánh Tông rất hài lòng đã ban chiếu khen thưởng Vũ Hữu.

Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]

Em ruột ông là Vũ Phong, Vô địch đô vật làm Cẩm y vệ Chỉ huy sứ.

Vết ố[sửa | sửa mã nguồn]

Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép:

Năm Quang Thuận thứ 8 (năm 1467), thi khoa Hoành từ. Điểm gọi các quan vào thi, tất cả là 30 người. Bấy giờ, Khâm hình viện lang trung Vũ Hữu, Viên ngoại lang Nguyễn Đình Khoa 5 người đều cáo ốm không vào thi. Vua lấy làm lạ, hỏi ra mới biết họ chỉ thích hối lộ. Nhân thế, vua dụ các quan trong triều rằng: "Việc hình án phức tạp khó khăn, có ba điều vất vả: Một là suốt ngày cặm cụi vất vả, khổ sở. Hai là xử án không đúng, chịu tội làm sai. Ba là án tụng chất đống, khó lòng xét xử tường tận. Có ba điều vất vả ấy dẫu người không bệnh cũng đến phát ốm, huống chi là có bệnh". Đó là nói giễu Vũ Hữu.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  • Có tài liệu chép là sinh năm 1443.
  • “Thông tin Lập thành Toán pháp”. Viện nghiên cứu Hán-Nôm. Vũ Phong (武 風): Mộ Trạch còn có Trạng vật Vũ Phong, tên hiệu là Tồn Trai, con thứ 5 của Vũ Bá Khiêm, em ruột Hoàng giáp Vũ Hữu. Ông tướng ngũ đoản, có biệt tài về đô vật, đã quật ngã các đô lực sĩ hộ vệ vua Lê Thánh Tông trong một cuộc thử sức, lại có tiếng chính trực và tháo vát, được vua tin dùng, cho làm Chỉ huy sứ Cẩm y thị vệ. Có lần ông được sung vào sứ bộ sang nhà Minh biểu diễn tài đô vật. Ông đã thắng các tay đô vật nổi tiếng của Tàu, đem lại vẻ vang cho dân tộc. Khiến vua Minh Hiến Tông phải khen ngợi, gọi ông là “Lý Tôn Hiến An Nam,” ý sánh ông với danh tướng họ Lý đời Đường Hy Tông, cũng vóc người nhỏ bé nhưng giỏi võ và sức mạnh phi thường, có công dẹp yên loạn Hoàng Sào. Người đương thời tôn xưng Võ Phong là Trạng Vật. Còn Hoàng giáp Lê Quang Bí, liệt ông vào các nhân vật lịch sử và có thơ vịnh: Ngũ đoản tằng xưng tướng mạo kỳ, Tang bồng hồ thỉ hảo nam nhi. Nhất môn bá trọng quang tiền nghiệp Thiên tải minh lương kết chủ tri Ứng biến đạt tài thi hữu chính, Xứng bình lệnh dữ bá vu thì. Tử tôn vinh thịnh đoan phi ngẫu, Chủng đức cao dao thị ngã si (sư). Bản dịch trong “Tự Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam”: Tướng xem ngũ đoản thật phi thường Hồ thỉ làm trai chí bốn phương Nếp cũ thêm tươi hàng bá trọng, Ngàn xưa được gặp chúa minh lương. Khen tay chính trị tài thông biến, Giữ mực công minh tiếng chẳng thường. Con cháu vinh hoa âu cũng bởi, Ai trồng cây đức để làm gương.