Các cứ là gì

Mục lục bài viết

  • 1. Nhà nước phân quyền cát cứ là gì?
  • 2. Trạng thái phân quyền cát cứ phong kiến
  • 3. Nguyên nhân dẫn đến phân quyền cát cứ
  • 3.1. Nguyên nhân sâu xa
  • 3.2. Nguyên nhân cơ bản
  • 3.3. Các nguyên nhân khác
  • 4. Biểu hiện của phân quyền cát cứ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội
  • 4.1. Về kinh tế
  • 4.2.Về chính trị – xã hội

1. Nhà nước phân quyền cát cứ là gì?

Nhà nước phân quyền cát cứ là hình thức nhà nước phong kiến, trong đó quyền lực nhà vua bị hạn chế bởi sự lộng quyền của các lãnh chúa địa phương.

2. Trạng thái phân quyền cát cứ phong kiến

Phân quyền cát cứ là trạng thái cơ bản, nổi bật nhất trong thời kì phát triển của chế độ phong kiến Tây Âu. Nó bao trùm và chi phối mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị phong kiến.

Ngay từ thời đế quốc Frăng đã nảy sinh hiện tượng phân quyền cát cứ. Sau khi Clovit chết năm 511, Vương quốc Frăng đã bị chi phối thành bốn phần do những người con của ông cai quản. Từ cuối thế kỉ VI, nội chiến giữa các anh em dòng họ Mê rô vanh giêng thường diễn ra, khiến cho quyền lực của các ông vua ngày càng suy yếu. Trong khi đó thế lực của bọn quý tộc ngày càng mạng lấn át cả quyền lực của nhà vua, biến vua thành lá chắn để che đỡ trong việc tranh giành nhau quyền lợi. Nhiều vùng trước kia thần phục, nay thoát li khỏi phạm vi thế lực của nhà vua, trở thành những vùng độc lập. Mãi tới đầu thế kỉ VIII, thừa tướng Sác lơ Mác ten dùng vũ lực khôi phục lại trật tự cũ trong toàn vương quốc.

Từ sau Hoà ước Véc đoong, Tây Âu hoàn toàn ở trạng thái phân quyền cát cứ. Không những đế quốc Frawng bị chia cắt và tan ra mà ngay mỗi vương quốc cũng bị tiếp tục chia cắt thành nhiều mảnh. Sau khi quyền lực của hoàng đế bị các vua lấn át đến lượt uy quyền của các vua bị lãnh chúa phong kiến coi thường. Nội chiến giữa các chúa phong kiến diễn ra triền miên cùng với nạn ngoại xâm làm cho nhân dân lao động vô cùng cơ cực.

Pháp là nước phân quyền cát cứ nhất ở Tây Âu. Nếu như ở Pháp, Anh từ đầu thế kỉ XV, chính thể quân chủ chuyên chế được xác lập, thì ở Đức, Italia trạng thái phân quyền cátcuws tồn tại vững chắc suốt thời phong kiến, cho đến khi nước Đức, Ý được thống nhất.

3. Nguyên nhân dẫn đến phân quyền cát cứ

3.1. Nguyên nhân sâu xa

Đế quốc Frang được dựng lên do kết quả của những cuộc chiến tranh xâm lược và được duy trì bằng bạo lực, không có cơ sở kinh tế, chỉ là một liên hiệp tạm thời không vững chắc, trong phạm vi cả Tây Âu và trong phạm vi từng nước, các cộng đồng dân cư ở vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội khác nhau, do đó đều có khuynh hướng phát triển riêng, muốn tách ra khỏi sự ràng buộc của chính quyền trung ương.

3.2. Nguyên nhân cơ bản

Nguyên nhân cơ bản có tính chất quyết định là về kinh tế. Trong đó trước hết phải nói đến chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất. Đó là sở hữu tư nhân rất lớn của phong kiến được hình thành từ hai nguồn:

- Nguồn thứ nhất: Chế độ phân phong ruộng đất và chế độ thừa kế ruộng đất. Các vua đều ban cấp ruộng đất cho những người trong họ hàng cha bầy tôi và giao cho giáo hội để trả công cho họ hoặc để mua chuộc sự ủng hộ của họ. Đến các quý tộc các lãnh chúa lớn cũng phải làm như vậy. Tức là cũng phải đem ruộng đất được vua phân phong để đem chia cho tùy tùng của mình. Chế độ phải phân phong ruộng đất.

- Nguồn thứ hai: Số ruộng đất ít ỏi của những nhân dân tự do, nằm rải rác trong khu đất của lãnh chúa. Những người dân ngoài việc phải đi lính cho nhà vua thì họ còn luôn đứng trước nguy cơ bị cướp bóc, là nạn nhân của các cuộc nội chiến nên họ phải nhờ vào một chỗ dựa nào đấy, đó là chúa phong kiến ở lãnh địa “bảo hộ” cho mình. Và vì thế họ phải hiến đất cho lãnh chúa và trở thành lệ nông hoặc nông nô để phục vụ trong các lãnh địa .Như vậy, các phần tử trong giai cấp phong kiến luôn luôn đứng trước một mâu thuẫn, một mặt bao giờ chúng cũng muốn tăng cường quyền lực và mở rộng lãnh địa của mình tới mức độ lớn nhất mặt khác lại phaỉ chia sẻ quyền lực và lãnh địa của mình cho các thần thuộc bên dưới để biến bon này thành chỗ dựa. Chính vì vậy, đã dẫn đến hậu quả quyền sở hữu tối cao ruộng đất không thuộc về nhà vua và dẫn đến trạng thái phân quyền cát cứ. Trạng thái này đẻ ra trạng thái kinh tế tự cung tự cấp. Đến lượt nó nền kinh tế tự nhiên nó lại là một yếu tố kinh tế củng cố trạng thái chính trị phân quyền cát cứ Việc thiết lập cấu trúc phân quyền cát cứ cũng là do vấn đề giao thông đi lại khó khăn bị hư hỏng nhiều bởi chiến tranh từ thời đế quốc La mã. Việc đi lại chuyên chở cũng không an toàn vì nạn cướp bóc, đường đi lại khó khăn, trắc trở khiến cho mối liên hệ giữa các vùng cũng không thường xuyên đã làm cho tình trạng cát cứ địa phương ở các lãnh địa trở nên sâu sắc rõ nét hơn.

3.3. Các nguyên nhân khác

Ngoài ra đối với từng nước còn có các nguyên nhân khác như ở Pháp do lãnh địa hẹp thu nhập ít thế lực của nhà vua rất hạn chế còn lãnh địa của các lãnh chúa ngày càng được mở rộng nên họ thường có thế mạnh áp đảo nhà vua. Hoặc như ở Italia do sự xâm lược và xâu xé của nhiều thế lực bên ngoài cộng với sự hình thành các quốc gia thành thị… nên Italia không có chính quyền trung ương. Còn ở Đức các lãnh chúa phong kiến có tham vọng rất lớn nên chúng thường đi xâm lược để thỏa mãn nhu cầu ruộng đất và của cải. Chính bởi việc hình thành các bậc thang đẳng cấp phong kiến ở Tây Âu đa hình hành mối quan hệ “ bồi thần của bồi thần chứ không phải bồi thần của ta” như câu nói của một nhà vua. Từ bâc thang đẳng cấp phong kiến nảy sinh tình trạng một số quý tộc nhỏ ở địa phương không nghe theo lệnh của vua vì vậy quyền của vua rất yếu ớt cũng chỉ như một lãnh chúa mà thôi. Chế độ này gọi là chế độ phân quyền cát cứ phong kiến có nghĩa là quyền lực đã bị phân tán và nằm trong tay các lãnh chúa phong kiến chứ không tập trung vào tay vua như ở phương Đông.

4. Biểu hiện của phân quyền cát cứ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội

Nói đến trạng thái cát cứ là nói về lãnh địa và lãnh chúa phong kiến. Đất đai được phân phong dần dần biến thành vật tư hữu và tạo nên lãnh địa. Đồng thời thế lực của người nhận đất ngày càng lớn và trở thành lãnh chúa, một lãnh chúa có nhiều lãnh địa có thể thừa kế cho con trai và kèm theo những nghĩa vụ đối với những người trong lãnh địa đó.

4.1. Về kinh tế

Mỗi lãnh địa phong kiến là một đơn vị khép kín, tự cung tự cấp, sẩn phẩm do nông nô làm ra thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển rất yếu ớt. Mỗi lãnh địa có nhiều trang viên, trong mỗi trang viên phong kiến lại chia làm hai phần: phần thứ nhất gồm lâu đài và một số ruộng đất, vườn tược do lãnh chúa trực tiếp quản lý và sức lao động ở đây là tô lao dịch của nông nô. Phần thứ hai chủ yếu gồm đất canh tác được chia thành nhiều khoảnh nhỏ cấp cho các gia đình nông dân lĩnh canh.

4.2.Về chính trị – xã hội

- Về xã hội

Quan hệ cơ bản là quan hệ giữa lãnh chúa và nông dân. Nông dân có ba loại: nông dân tự do, lệ nông và nông nô. Trong đó, lệ nông dần dần trở thàn nồng nô. Ngay cả nông dân tự do trước sau cũng bi biến thành nông nô. Nông nô lệ thuộc vào chúa phong kiến cả về ruộng đất và thân thể. Họ bị cột chặt suốt đời vào ruộng đất phong kiến không có quyền bỏ đi nơi khác.Nếu chúa phong kiến chuyển nhượng ruộng đất thì cũng chuyển nhượng luôn những nông nô sống trên đó. Nhưng nông nô chưa mất tự do hoàn toàn, họ có quyền có gia đình, có tài sản riêng. Lãnh chúa có thể mua bán nông nô những không thể tùy tiện giết họ như nô lệ. Đối với lệ nông không phải nông nô thì số ngày lao dịch và khoản tô hiện vật được giảm nhẹ hơn. Vì nông nô lẹ thuộc vào chúa phong kiến về mặt thân thể, nên họ phải nộp thuế thân cho chúa phong kiến. Nông nô lấy vợ, lấy chồng phải nộp thuế kết hôn. Con cái nông nô muốn kế thừa tài sản của cha cũng phải nộp khoản thuế gọi là thuế thừa kế. Những so với nô lệ trong xã hội cổ đại thân phận của nông nô có khá hơn.

- Về chính trị

Lãnh địa cũng là một đơn vị chính trị biệt lập tương tự như một vương quốc có quân đội luật lệ tòa án, tài chính đơn vị đo lường riêng. Những tước vị và chức vụ trong chính quyền mà nhà vua trao cho các lãnh chúa nay đã trở thành cha chuyền con nối. Không những thế các lãnh chúa còn biến luôn khu cả khu vực hành chính do chúng đứng đầu thành lãnh địa riêng. Nhà vua không thể điều động, thuyên chuyển hoặc thay thế chúng bằng người khác. Chúng còn dùng uy quyền biễn các thần thuộc của nhà vua thành thần thuộc của chúng, biến những thần dân của nhà vua thành thần dân của chúng. Các lãnh chúa đều có tòa án riêng xét xử những thần dân trong lãnh địa giám chông lại chúng. Những vụ xét xử này còn đem lại cho lãnh chúa một khoản thu nhập lớn. Ngoài ra quyền đúc tiền cũng đem lại một nguồn lợi không nhỏ cho các lãnh chúa. Quyền thu thuế ở địa phương cúng thuộc về các lãnh chua. Giữa các chúa phong kiến thường xảy ra chiến tranh, nhằm cưỡng đoạt đất đai, tài sản, mở rộng phạm vi thế lực. Bộ phận quân đội của lãnh chúa hoàn toàn tách khỏi sự điều động của nhà vua

Có thể thấy, trạng thái phân quyền cát cứ ở Tây Âu thời kỳ phong kiến có ảnh hưởng rất lớn đến tổ chức bộ máy nhà nước. Nếu như ở thời kì đầu trong chỉ là bầy tôi giúp việc quản lí sản nghiệp đó, vua là tổng chỉ huy quân đội giữ quyền xét xử tối cao, quyền thế thì đến thời kì phân quyền cát cứ ở Tây Âu đứng đầu nhà nước vẫn là vua nhưng quyền lực lại bị hạn chế và phân tán cho các lãnh chúa. Hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương không có sự thống nhất chặt chẽ. Mỗi lãnh đia như là một quốc gia riêng và các lãnh chúa chính là một ông vua ngự trị trên vương quốc đó.

Như vậy trên thực tế các lãnh địa đã trở thành những quốc gia nhỏ. Các lãnh chúa trở thành vua trên lãnh địa của mình có đầy đủ quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp, có bộ máy chính quyền, tòa án, quân đội luật lệ riêng. Chính trong trạng thái phân quyền cát cứ đó, quan hệ phong kiến được thể hiện rõ nét nhất, thể hiện qua chế độ sở hữu phong kiến quan hệ địa chủ phong kiến nông nô địa vị của hai giai cấp này trong xã hội và phương thức bóc lột địa tô. Như vậy thời kì phân quyền cát cứ là thời kì phát triển nhất chế độ phong kiến Tây Âu.

Luật Minh KHuê (tổng hợp & phân tích)