Ca khúc truyền thống hiện nay của trường đại học Công nghiệp thành phố hồ chí minh

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>V</b>

<b>A</b>

<b>1. Nhận thức về thể loại ca khúc dân gian </b>

<b>đương đại </b>


<i><b>Về phương diện thực tiễn</b></i>


Trong nhiều thể loại ca khúc ở Việt Nam hiện nay, có một thể loại cho thấy sự liên hệ với truyền thống văn hóa, đó là những ca khúc mang yếu tố văn hóa dân gian. Những ca khúc này được gọi chung là thể loại <i>ca khúc dân gian </i><i>đương đại</i>. Sự hiện diện của thể loại này đã đưa công chúng trở lại với những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống trong một diện mạo mới đầy thú vị. Suy rộng hơn, đó là phát huy được


bản sắc văn hóa Việt Nam trong q trình hội nhập văn hóa mang tính tồn cầu.


Ca khúc dân gian đương đại là một hiện tượng văn hóa khơng phải ngẫu nhiên xuất hiện. Sự hiện diện của nó là hệ quả tất yếu của cả một q trình tiếp biến văn hóa dựa trên cơ sở nền tảng truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Trên dòng chảy của lịch sử, bất cứ ở giai đoạn nào, văn hóa dân tộc ln tự làm giàu bằng sự bồi đắp những yếu tố văn hóa ngoại sinh. Âm nhạc cũng khơng nằm ngồi quy luật đó, nó ln là yếu tố động, cho dù hình thức vận động của nó có thể là sơi động hay thầm lặng. Một hiện tượng văn hóa - âm nhạc mới ở thế kỷ XX cũng là kết quả của quá trình chọn


<b>PHONG CÁCH THỂ HIỆN</b>


<b>CA KHÚC DÂN GIAN ĐƯƠNG ĐẠI</b>



<b>PHẠM NGỌC KHUÊ*</b>


<b>Tóm tắt </b>


<i>Trong bức tranh tổng thể của ca khúc Việt Nam những năm gần đây, thể loại ca khúc dân gian </i><i>đương đại mang giá trị sáng tạo văn hóa độc đáo, có thể coi như một nhịp cầu, nối giữa quá khứ và </i><i>hiện tại trên phương diện văn hóa nghệ thuật. Đây là một hướng đi đúng đắn, mang lại nhiều thành </i><i>công cho các nhạc sỹ/ca sỹ trẻ, khi kết hợp giữa tinh hoa âm nhạc truyền thống với những phương </i><i>pháp sáng tác, kỹ thuật biểu diễn âm nhạc của thế giới, để sáng tạo và trình diễn một thể loại ca khúc </i><i>mang hơi thở thời đại và bản sắc văn hóa Việt Nam. Bài viết mong muốn mang đến một cái nhìn chân </i><i>thực, khách quan về ca khúc dân gian đương đại trong giai đoạn hiện nay và chỉ ra một số vấn đề về </i><i>phong cách thể hiện được rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn biểu diễn ca khúc dân gian đương đại của </i><i>người viết. </i>


<b>Từ khóa: </b>Ca khúc dân gian đương đại, nhạc trẻ, phương pháp biểu diễn


<b>Abstract</b>


<i>In the overall picture of Vietnamese songs recent years, the contemporary folk songs genre contains </i><i>unique cultural creativity values, which can be considered as a link, connecting the past and the present </i><i>on the aspects of culture and art. This is a right direction which brings many successes for young </i><i>musicians/ singers, when they combine the quintessence of traditional music with the composing </i><i>methods, musical performance techniques of the world in order to creates and performs a genre of </i><i>songs that contains a breath of the age and Vietnamese cultural identity. The article would like to bring </i><i>a realistic, objective view of contemporary folk songs in the current period and point out some issues of </i><i>performance style drawn from author’s practical experience of performing contemporary folk songs.</i>


<b>Keywords:</b> Contemporary folk songs, young music, performance styles

</div>

<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>V</b>

Ă N HÓ

<b>A</b>



lọc, chắt lọc giữa âm hưởng âm nhạc Việt Nam và âm hưởng âm nhạc phương Tây.


Trong quá trình phát triển của ca khúc Việt Nam, ở giai đoạn nào cũng có những bài hát chứa đựng trong nó những biểu hiện của âm nhạc dân gian. Ngay từ khi mới xuất hiện nền tân nhạc ở đầu thế kỷ XX, các tác phẩm âm nhạc được viết dựa trên nền tảng âm nhạc phương Tây, song các nhạc sỹ cũng đã đưa nhiều chất liệu của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam vào trong sáng tác của mình. Các nhạc sỹ trong thời kỳ này như Văn Cao, Phạm Duy, Thẩm Oánh,… sáng tác nhiều ca khúc mang âm hưởng dân ca được công chúng đón nhận nồng nhiệt.


Giai đoạn 1954 - 1975, do bối cảnh của lịch sử và sự phân hóa về thể chế chính trị, nền âm nhạc Việt Nam chia làm 2 nhánh với sự khác biệt rõ rệt: nhánh âm nhạc cách mạng (ở miền Bắc XHCN và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam); nhánh âm nhạc của chế độ Việt Nam Cộng hòa (miền Nam Việt Nam). Âm nhạc cách mạng với tinh thần chủ đạo là ngợi ca tình yêu quê hương đất nước, động viên quần chúng nhân dân xây dựng CNXH và thể hiện khát vọng ý chí thống nhất đất nước. Nhiều ca khúc cách mạng Việt Nam xuất hiện trong thời kỳ này có nội dung và ngơn từ mang âm hưởng, màu sắc dân gian. Các nhà nghiên cứu âm nhạc gọi là <i>ca khúc trữ tình mang phong </i><i>cách dân gian. </i>Thực chất, nó là một nhánh của thể loại ca khúc trữ tình ở giai đoạn này. Nhìn trên nhiều bình diện, có thể thấy việc bám sát hiện thực đời sống và thực tiễn cách mạng vẫn là nét chủ đạo của ca khúc trữ tình. Các nhạc sỹ đã sáng tạo ra nhiều sản phẩm tinh thần là những ca khúc mang đậm chất dân ca. Màu sắc dân ca của vùng châu thổ Bắc Bộ được thể hiện trong các ca khúc như: <i>Đóng nhanh </i><i>lúa tốt</i> (Lê Lôi - Huyền Tâm), <i>Lúa mới</i> (Nguyễn Đức Tồn), <i>Lúa vàng</i> (Mạc Hy), <i>Cấy chiêm</i> (Tơ Vũ - Qch Vinh); chất liệu hị sơng nước của cư dân đồng bằng Nam Bộ được chưng cất và hiện diện trong các ca khúc như: <i>Lên ngàn, </i><i>Mùa lúa chín</i> (Hoàng Việt)…


<i><b>Về phương diện lý luận</b></i>


Ca khúc dân gian đương đại thực sự chưa


học thuật, cũng không phải là một thuật
ngữ trong âm nhạc, mà là một cách gọi để chỉ một thể loại ca khúc viết theo hệ thống lý thuyết âm nhạc phương Tây nhưng mang trong nó những yếu tố dân gian Việt Nam. Cụm từ <i>ca khúc dân gian đương đại </i>mới xuất hiện ở Việt Nam hơn chục năm nay, đặc biệt gần đây thường xuyên xuất hiện trên truyền thông, trong các cuộc thi có phân chia các thể loại giọng hát, hay trong chương trình <i>Bài hát </i><i>Việt</i> trên sóng VTV3. Mục đích là để phân biệt giữa những ca khúc này với các bài hát mang phong cách Pop, Rock, thính phịng… Mặc dù cịn có những cách hiểu khác nhau, nhưng nhìn chung có hai luồng ý kiến chủ yếu: 1) Ca khúc dân gian đương đại là một thể loại; 2) Ca khúc dân gian đương đại là một cách gọi.


Nhìn nhận ca khúc dân gian đương đại là một thể loại, nhạc sỹ Nguyễn Cường cho rằng:


<i>Đó là các bài hát muốn nhấn mạnh rằng nó gần </i><i>gũi với dân ca và muốn trở thành cái gọi là dân </i><i>ca mới trong đời sống mới. Ca khúc được gọi là </i><i>dân gian đương đại ngoài yếu tố giai điệu mang </i><i>âm hưởng dân ca, gần gũi với dân ca thì cịn có </i><i>cả yếu tố khác như cách phối khí, cách trình bày, </i><i>trang phục biểu diễn… Nó bộc lộ sự phát triển </i><i>của âm nhạc Việt Nam tới mức độ phân chia </i><i>thành phong cách âm nhạc riêng. Thế giới có </i><i>Pop, Rock, R&B, Hip hop… thì Việt Nam có dân </i><i>gian đương đại. Nói cách khác, nó như là thể loại </i><i>của âm nhạc Việt Nam</i> [1, tr.33]. Tác giả Nguyễn Vĩnh Tiến, người có nhiều ca khúc sáng tác theo thể loại này cũng đưa ra nhận định: <i>Ca </i><i>khúc dân gian đương đại là một thể loại có sự kết </i><i>hợp của yếu tố dân gian và yếu tố đương đại. Hai </i><i>yếu tố này đi song hành với nhau chứ không loại </i><i>bỏ nhau. Các tác giả vẫn dùng hơi thở thời đại, </i><i>ngơn ngữ đương đại để nói vấn đề hôm nay</i> [15]. Nhạc sỹ Lê Minh Sơn, trong một cuộc phỏng vấn nói về sự thưa vắng của loại bài hát dân gian đương đại trên sâu khấu Bài hát Việt, cho rằng: <i>“Việc tìm ra một bài hát đi vào lịng người </i><i>là chuyện khơng dễ dàng. Tác giả viết loại ca </i><i>khúc này phải là người có khát vọng thể hiện cái </i><i>tơi Việt Nam và thoát khỏi sự ảnh hưởng quá lớn </i><i>của nhạc nước ngoài”</i> [8,tr.36].

</div>

<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>V</b>

<b>A</b>



nhạc sỹ đương đại sáng tác, ít nhiều đều khai thác chất liệu từ âm nhạc dân gian Việt Nam.<b>2. Những yêu cầu đặt ra đối với nghệ sỹ biểu </b><b>diễn ca khúc dân gian đương đại</b>


Sau khi được sáng tác, tác phẩm âm nhạc đương nhiên trở thành đứa con tinh thần của riêng người nhạc sỹ viết ra nó, nhưng để trở thành một sản phẩm âm nhạc, tác phẩm phải được đưa đến cơng chúng và phải có đời sống trong cơng chúng. Q trình đó được thực hiện thơng qua các nghệ sỹ trình diễn (nhạc sỹ phối khí, ca sỹ thể hiện). Nhìn nhận vấn đề như vậy để thấy rằng, bên cạnh vai trò của người nghệ sỹ sáng tác thì nghệ sỹ trình diễn cũng có vai trị nhất định để làm nên sự thành công của tác phẩm âm nhạc. Chính vì vậy, trong đời sống âm nhạc, nhiều ca khúc, bài hát trở nên nổi tiếng, có chỗ đứng trong lịng cơng chúng một phần là nhờ nghệ sỹ thể hiện thành cơng và có bản phối khí hay. Nhiều tên tuổi nghệ sỹ/ca sỹ gắn với những ca khúc nổi tiếng như: Nghệ sỹ nhân dân Thu Hiền với ca khúc <i>Câu hò </i><i>trên bến Hiền Lương</i> (sáng tác Hoàng Hiệp, thơ Đằng Giao), Nghệ sỹ Anh Thơ với ca khúc <i>Xa </i><i>khơi</i> (sáng tác Nguyễn Tài Tuệ), nghệ sỹ Tùng Dương với ca khúc <i>Quê nhà</i> (sáng tác Trần Tiến), nghệ sỹ Ngọc Khuê với ca khúc <i>Bà tôi </i>


(sáng tác Nguyễn Vĩnh Tiến)… Đây là những ca khúc mang âm hưởng dân gian được các nghệ sỹ thể hiện thành công, ghi dấu ấn trong lòng khán giả. Tuy nhiên, để thể hiện thành cơng những ca khúc dân gian đương đại, thì phong cách phối khí của nhạc sỹ và cách hát của ca sỹ là những yếu tố vô cùng quan trọng, là điểm tạo nên sự khác biệt giữa dòng nhạc dân gian đương đại với các dòng nhạc khác.


<i><b>Đối với nhạc sỹ phối khí</b></i>


Khơng giống như một số nước có nền âm nhạc hàn lâm lâu đời, ở Việt Nam, khá nhiều nhạc sỹ sáng tác ca khúc (chủ yếu một bè) nhưng họ lại khơng phối khí. Phối khí tốt làm cho ca khúc trở nên hồn thiện hơn, hay hơn nếu nhạc sỹ phối khí nắm được nội dung và ý đồ của tác giả ca khúc; ngược lại, không hiểu được ý đồ của tác giả, nghệ sỹ phối khí có thể sẽ


hợp nhiều nhạc cụ cùng loại hoặc khác loại. Điều quan trọng nhất trong ý thức của người nghệ sỹ phối khí là làm sao âm thanh của các loại nhạc cụ không được lấn át lẫn nhau, biết tôn nhau để tạo nên vẻ đẹp của nghệ thuật. Nghệ sỹ phối khí phải biết tận dụng những ưu thế của hòa thanh, phức điệu, tiết tấu, giai điệu, âm sắc,... để thực hiện bằng được ý đồ của tác giả. Phối khí vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật, dẫu vậy, nó vẫn là thứ do con người sáng tạo ra, do đó, con người có thể thay đổi nó theo thẩm mỹ của thời đại.


Phối khí cho ca khúc nói chung, đến thời điểm hiện tại, phần nhạc đệm vốn được xây dựng trên nền tảng của tư duy hịa thanh cổ điển phương Tây. Đó là những kiểu hợp âm có cấu tạo dựa theo nguyên tắc âm nhạc học, được liên kết với nhau theo những hệ thống công năng nhất định. Chúng thường được âm hình hóa dựa theo những mơ hình nhịp điệu khác nhau để phù hợp với nội dung, tính chất của từng ca khúc. Do tính khoa học cũng như sự thuận lợi khi biểu diễn, kiểu phối khí này hầu như đã thành công thức chung cho hầu hết các ca khúc đang thịnh hành [9, tr.63].


Dẫu có thể coi đó là mẫu số chung, nhưng ở mỗi thể loại ca khúc vẫn rất cần có những tư duy phối khí khác nhau. Với ca khúc dân gian đương đại, một phần do ý thức thể loại, phần còn lại do ý đồ khơi gợi cho công chúng hướng tới sự liên tưởng về không gian âm nhạc truyền thống, nên hầu hết bản phối ln có bóng dáng của yếu tố âm nhạc dân gian thông qua các câu nhạc cũng như các loại nhạc khí dân gian được sử dụng. Điều này đang trở thành một tiêu chí cần thiết, đảm bảo cho sự thành công của tác phẩm.

</div>

<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>V</b>

Ă N HĨ

<b>A</b>



cho người nghe. Đó cũng là cách mà nhạc sỹ phối khí muốn dẫn dắt người nghe hướng về những không gian thôn dã của các vùng quê.


Trong kỹ thuật thanh nhạc truyền thống của người Việt nói chung, của các dân tộc thiểu số nói riêng ở Việt Nam, nhiều loại dân ca thường có những nhạc cụ mang tính đặc thù để đệm cho nó. Nói cách khác, do tính thẩm mỹ của dân tộc, trên phương diện âm thanh, trải qua nhiều năm, trong tiềm thức của người thưởng thức, cứ nói tới một loại nhạc cụ nào là người ta nghĩ ngay tới vai trị của nó với một loại dân ca tương thích. Chẳng hạn: tính tẩu dùng đệm cho hát then; đàn bầu, sáo nhị dùng đệm cho hát chèo, hát xẩm; đàn đáy cho hát ca trù; kèn so na cho hát tuồng; đàn nguyệt dùng đệm ngâm thơ; mõ đệm cho tụng kinh... Chính những điều đó, đã gợi cho nhạc sỹ phối khí có cách tư duy mới trong việc kết hợp với nhạc khí phương Tây, hoặc kết hợp giữa các nhạc khí dân tộc với nhau trong dàn nhạc sẽ tạo được hiệu ứng dân gian như mong muốn.


Nghiên cứu này không nhằm mục đích đi tìm hiểu thủ pháp kết hợp giữa nhạc khí dân gian và nhạc khí phương Tây của các nhạc sỹ, mà chỉ muốn thơng qua đó thấy được cách phối khí của người nhạc sỹ cũng như tinh thần, thành tố âm nhạc dân gian được thể hiện trong tác phẩm. Vì vậy, chúng tơi chỉ lấy một vài ví dụ có tính tiêu biểu mà các nhạc sỹ phối khí sử dụng nhạc cụ dân tộc thực thụ, hay mô phỏng lại âm thanh của nhạc cụ dân tộc, chẳng hạn: Trong ca khúc <i>Bà tôi </i>và<i> Giọt sương </i><i>bay lên </i>của Nguyễn Vĩnh Tiến, bên cạnh dàn nhạc nhẹ, nhạc sỹ phối khí cịn dùng thêm đàn bầu, mõ,... cho phù hợp âm nhạc tụng kinh có trong bài hát. Các ca khúc <i>Về quê</i> (Phó Đức Phương), <i>Tiếng hát bên dịng sơng Trà</i> (Vũ Thiết), <i>Bức tranh quê</i> (Thanh Nghị),... cũng được người phối khí sử dụng đàn bầu, sáo,... tạo ra tính chất âm nhạc thanh bình vốn có của những làng quê thuộc châu thổ Bắc Bộ. Một số ca khúc của Mạnh Trí viết về đề tài Tây Nguyên, trong cách phối, nhạc sỹ luôn đề cao sắc thái âm nhạc vùng miền. Chẳng hạn: <i>Bài </i><i>ca trên đồi, Chờ em xuống núi </i>có sử dụng tiếng sáo tiêu để dẫn dắt;<i> Khúc Ei rei mùa xuân, Rừng </i>


<i>chuông trai làng, Nhịp điệu cao nguyên,... </i>đều sử dụng đàn gong, ki pá, t’rưng trong dàn nhạc. Có thể kể thêm một số ca khúc mà khi phối khí các nhạc sỹ không quên sử dụng nhạc cụ dân tộc hay âm hưởng của nhạc cụ dân tộc, như: <i>Trên đỉnh Phù Vân</i> (Phó Đức Phương),


<i>Duyên nợ tang bồng</i> (Nguyễn Văn Tân) sử dụng nhị; <i>Lạnh thu đếm tình </i>(Lê Võ Tuân), <i>Tìm về tuổi </i><i>thơ</i> (Quang Hưng - Phạm Kim Anh), <i>Thư pháp</i>


(Nguyễn Duy Hùng) sử dụng sáo trúc; <i>Lời ru Âu </i><i>Lạc </i>(Nguyễn Minh Sơn), <i>Độc huyền cầm</i> (Bảo Lan) có sự tham dự của đàn bầu; <i>Dời đơ ngàn </i><i>năm vang mãi</i> (Nguyễn Tiến) có sử dụng tiếng kèn so na…


<i><b>Đối với ca sỹ trình diễn </b></i>


Khi ca sỹ trình diễn, đưa ca khúc đến với cơng chúng, có thể coi như là cơng đoạn cuối cùng của sự sáng tạo tác phẩm âm nhạc. Do đó, cách hát và cách trình diễn trên sân khấu của ca sỹ là vô cùng quan trọng, không kém khâu sáng tác và phối khí.


Đã có một thời gian khá dài, kỹ thuật thanh nhạc ở nước ta thường lấy theo hệ quy chiếu chuẩn là âm nhạc kinh viện cổ điển phương Tây. Học và hát trong các nhạc viện hay trường nghệ thuật đều phải hát theo kỹ thuật Bel canto. Theo nhà sư phạm Trung Kiên, phong cách hát Bel canto mang tính <i>khí nhạc</i>, nghĩa là xem giọng hát như một nhạc khí. Người ca sỹ luyện tập cho giọng hát phát triển, nắm vững kỹ thuật thanh nhạc khác nhau như hát liền giọng, hát thanh, âm nảy, hoa mỹ, hát vuốt nhỏ dần,... sử dụng những kỹ thuật này hết sức điêu luyện và hợp lý trong mối quan hệ giữa giai điệu và lời ca không làm âm thanh nặng nề, ảnh hưởng tới âm sắc. Khơng vì mục đích rõ lời mà áp dụng cách hát như nói [5, tr.181].

</div>

<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>V</b>

<b>A</b>



Nguyễn Trọng Tạo được viết trên chất liệu dân gian Bắc Bộ - dân ca quan họ Bắc Ninh. Khi thể hiện bài hát này, ca sỹ không nhất thiết phải luyến láy cả bài (hự - hạ - hồi - hư…) như đúng cách dân gốc hát quan họ Bắc Ninh, mà có thể luyến, nhấn những câu hoặc từ nào đó làm nổi lên được đặc trưng vùng miền của bài hát.


Trong xu thế hội nhập mang tính tồn cầu hiện nay, nhiều nước nhận ra rằng, cần phải bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, vùng miền. Với nước ta, nhiều năm trở lại đây, bản sắc văn hóa dân tộc ln được Đảng ta quan tâm một cách đúng mức. Điều đó đã giúp cho những người làm văn nghệ nói chung và làm âm nhạc nói riêng, có cơ sở nhận thức lại nhiều vấn đề có liên quan đến nó. Trong thanh nhạc, mặc dù cách hát Bel canto là kinh điển, nhưng nó khơng phải là mơ hình để áp dụng cho tất cả các nền thanh nhạc.


So với cách hát dân ca, hay hát trên sân khấu cổ truyền Việt Nam, kỹ thuật Bel canto có nhiều điểm khác biệt. Hát quan họ, ca trù chủ yếu với kỹ thuật vang, rền, nền, nảy; hát chèo cần sự nhẹ nhàng, nền nã, mượt mà; hay đặc điểm nổi trội của tuồng là thể hiện rất rõ cái hùng và cái bi, nhiều khi diễn viễn vừa diễn xuất, vừa múa và hát. Vì thế, các nghệ sỹ tuồng phải vận dụng khí để hát căng, đơi khi cường điệu. Nhạc sỹ Lê Yên cho rằng: <i>Tuồng </i><i>truyền thống là loại hình mang những nội dung </i><i>cần thể hiện bằng sự khoa trương, căng cứng </i><i>đến bạo liệt, cho nên cũng một làn điệu, nếu </i><i>chỉ hát kiểu bình thường thì giọng đẹp mấy, kỹ </i><i>thuật điêu luyện mấy đi chăng nữa, cũng chưa </i><i>được công nhận là hát tuồng... Ngữ khí chủ yếu </i><i>của hát tuồng là thứ cần vận dụng một áp suất </i><i>mạnh, nặng kể cả khi nói thầm</i> [4, tr.91]. Đây là những điều mà trong hát Bel canto khơng có. Nếu ca sỹ nắm bắt và nhìn nhận được những điều khác biệt này, để vận dụng khi biểu diễn các bài hát dân gian đương đại thì sẽ đem lại hiệu quả như mong muốn.


Những năm gần đây, do nhận thức về vai trị quan trọng của bản sắc văn hóa dân tộc đối với sự phát triển của đất nước, nhiều ca sỹ đã


thuật hát dân gian. Những ca sỹ đi theo hướng này đã tạo nên một phong cách mới: <i>phong </i><i>cách dân gian</i> và được công chúng chấp nhận. Phong cách này cũng được định hình qua các cuộc thi liên hoan tiếng hát truyền hình như


<i>Sao Mai, Sao Mai điểm hẹn, Bài hát Việt, Việt </i><i>Nam Idol, Giọng hát Việt (The Voice)...</i> Nhiều ca sỹ như Anh Thơ, Tân Nhàn, Ngọc Khuê, Tùng Dương, Khánh Linh, Hà Linh, Nguyễn Trần Trung Quân,... đã thành danh từ sân khấu này và cũng chính từ dịng nhạc này.


Khi trình diễn bài hát dân gian đương đại,
ca sỹ không phụ thuộc quá nhiều vào kỹ thuật thanh nhạc phương Tây, mà họ tìm cách kết hợp giữa cách hát ta và Tây, xử lý sao cho tinh tế ra chất dân gian của bài hát trong một môi trường mới, ý thức mới. Thường thì những đặc trưng của văn hóa vùng miền như phương ngữ, âm điệu, luyến láy,... luôn được các ca sỹ quan tâm khai thác triệt để.


<i>Vận dụng cách đệm xuyên tâm trong chèo</i> làm nhạc nối giữa hai câu hát. Kiểu đệm này chúng ta bắt gặp trong <i>Về miền ca dao </i>(Khánh Vinh),


<i>Trầu không</i> (Quang Hưng - Phạm Kim Anh), <i>Độc </i><i>huyền cầm</i> (Bảo Lan), <i>Vội</i> (Đức Nghĩa), <i>Về quê </i>


(Phó Đức Phương), <i>Huế thương, Ca dao em và tơi</i>


(An Thuyên), <i>Sông quê</i> (Nguyễn Trọng Tạo)...


<i>Vận dụng cách đệm bè tòng của âm nhạc </i><i>dân gian.</i> Đệm bè tòng là câu nhạc đệm có trong hát then, hát văn, chèo ca Huế, tài tử - cải lương và một số loại dân ca khác. Đó là những câu nhạc “luồn lách”, đôi khi phần vocal của bề đệm bám theo giai điệu của ca sỹ đang trình diễn, bởi các nhạc cụ điện tử, truyền thống một cách ngẫu hứng, đơi khi nằm ngồi ý đồ của nhạc sỹ phối. Những trường hợp này xuất hiện trong bản phối của các ca khúc <i>Huế </i><i>thương </i>(An Thuyên), <i>Gió mùa về</i> (Lê Minh Sơn),


<i>Ơng tơi </i>(Nguyễn Vĩnh Tiến), <i>Hát mãi bài trường </i><i>ca Đam San</i> (Mạnh Trí)...

</div>

<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>V</b>

Ă N HĨ

<b>A</b>



tới trang phục truyền thống. Điều đó cho thấy, những ca sỹ này đã biết cộng cảm cùng tác giả sáng tác để thể hiện cho được sự thống nhất giữa nội dung và hình thức của bài hát. Đó cũng là một cách khơi gợi để dẫn dắt công chúng vừa thưởng thức cái hay cái đẹp của ca khúc, vừa liên tưởng tới những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Bên cạnh đó, với những bài hát mang âm hưởng dân gian vùng miền, được kết hợp với phần xử lý tác phẩm cũng như hịa âm phối khí theo phong cách hiện đại - trẻ trung như Rock, Pop, R&B, nhạc điện tử,… thì người nghệ sỹ trình diễn được quyền phối kết hợp với những bộ đồ - trang phục biểu diễn theo cách riêng của họ. Ví dụ, khi ca sỹ Đoan Trang trình bày tác phẩm


<i>Quạt giấy</i> của nhạc sỹ Lưu Thiên Hương trong chương trình <i>Bài hát Việt</i>, âm nhạc được phối khí theo phong cách Pop Rock, ca sỹ đã lựa chọn cho mình trang phục quần jean kết hợp với áo yếm, đi giày cao gót, cầm quạt giấy. Sự kết hợp đầy ngẫu hứng cùng cách trình diễn tự tin đã giúp bài hát <i>Quạt giấy</i> đến gần hơn với khán giả (đạt giải Bài hát mang phong cách Pop Rock nổi bật nhất năm 2007). Tiếp đó, năm 2008, cũng trong chương trình <i>Bài hát Việt,</i> ca sỹ Tùng Dương trình diễn bài hát <i>Con Cò </i>của nhạc sỹ Lưu Hà An, với phần hịa âm phối khí theo kiểu world music mới lạ, trang phục áo vest lịch lãm, phần thiết kế tay cánh dơi đã giúp <i>Con Cò </i>vút bay trên sân khấu và đạt 3 giải: Bài hát của năm, Bài hát được yêu thích nhất và Ca sỹ được yêu thích nhất.


Trong thời gian qua, một vấn đề khác đáng quan ngại là tình trạng làm mới, cách tân, cải biên trang phục dân tộc trên sân khấu biểu diễn. Thay vì phát triển, gìn giữ và tơn vinh những nét đẹp, giá trị văn hóa dân tộc, khơng ít cách làm, sử dụng đã làm biến dạng các trang phục truyền thống. Có những ca sỹ đã khốc lên mình những thiết kế sử dụng chất liệu vải trong suốt - chiếc áo dài “mặc cũng như không” khiến người xem phải đỏ mặt. Không chỉ vậy, một số ca sỹ còn mặc những bộ thiết kế được ghép đơi áo dài với quần sc, hay áo dài với tất lưới gợi cảm. Khá nhiều ý kiến bày tỏ sự phẫn nộ với cách sử dụng trang phục phản


bộ trang phục truyền thống của dân tộc. Cách đây một vài năm, một số nghệ sỹ sử dụng khăn Piêu để làm “khố” trong một tiết mục biểu diễn cũng khiến giới nghiên cứu văn hóa và dư luận bất bình. Tình trạng đó cho thấy vẫn cịn tồn tại sự dễ dãi, tùy tiện của một số nghệ sỹ khi trình diễn với trang phục dân tộc.


Về phong cách trình diễn, ca sỹ phải tìm những động tác, cử chỉ mang tính thích hợp với trang phục và nội dung bài hát. Chẳng hạn, với những bài hát mang âm hưởng dân ca châu thổ Bắc Bộ (như <i>Làng quan họ quê tôi</i>), hay đồng bằng Nam Bộ (như <i>Áo mới Cà Mau</i>) hoặc âm hưởng dân ca Bình - Trị - Thiên (như


<i>Quảng Bình quê ta ơi</i>), thường thì sắc diện của ca sỹ phải thân thiện, ánh mắt dịu dàng, đi lại nhẹ nhàng thướt tha. Đối với bài hát mang âm hưởng dân tộc Tây Nguyên (như <i>Ngọn lửa cao </i><i>nguyên</i>), thường thì các động tác biểu cảm của ca sỹ phải nồng nàn, mạnh mẽ.


Với ca sỹ, khi hát các bài hát thuộc loại này, họ cũng nhận thức rõ được nội dung và sắc thái dân tộc của tác phẩm. Do vậy, để thể hiện và chuyển tải thành công nội dung và ý đồ của tác giả sáng tác/nhạc sỹ phối khí, các ca sỹ phải chú trọng tới tinh thần, phương ngữ của bài hát. Bên cạnh đó, khi trình diễn, việc lựa chọn trang phục của ca sỹ cũng có ảnh hưởng nhất định tới việc chuyển tải nội dung, tinh thần bài hát đến cảm xúc của khán giả khi thưởng thức nghệ thuật. Những động tác, cử chỉ biểu cảm khi biểu diễn cũng nhẹ nhàng, dun dáng... góp phần tơ đậm thêm yếu tố dân gian cho các ca khúc mà họ thể hiện.


<b>Kết luận</b>


Từ đầu thế kỷ XX, âm nhạc Việt Nam dần bộc lộ hiện tượng giao lưu, tiếp biến với văn hóa âm nhạc phương Tây. Điều đó dẫn đến sự ra đời của một số ca khúc được viết theo hình thức và lý thuyết âm nhạc phương Tây, nhưng mang chất liệu âm nhạc dân gian Việt Nam. Kể từ đó đến nay, nó đã phát triển thành một thể loại, gọi là <i>ca khúc dân gian đương đại.</i>

</div>

<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>V</b>

<b>A</b>



để hình thành một khái niệm rạch rịi, nhưng người ta vẫn công nhận sự tồn tại của nó thơng qua các cuộc thi giọng hát, trên các diễn đàn, hay các phương tiện truyền thông đại chúng.


Ca khúc dân gian đương đại có thể xem như là gạch nối mềm mại và đầy sáng tạo giữa yếu tố âm nhạc dân gian bản địa và lý thuyết âm nhạc phương Tây. Nó mang đến hơi thở và sức sống của thời đại, nhưng thật gần gũi, thân quen bởi các chất liệu có từ trong truyền thống. Nó là một ví dụ tiêu biểu của sự giao lưu, tiếp biến âm nhạc trong thời đại toàn cầu hóa văn hóa hiện nay. Ta có thể dễ dàng nhận thấy ở đó nhiều giá trị văn hóa độc đáo, góp phần khơi gợi và lưu giữ hình ảnh của làng quê xưa trong tâm thức của người dân đương đại. Bên cạnh đó, thơng qua lời ca và âm nhạc, người nghe có thể cảm nhận và thu nhận được thế giới quan và triết lý sống của thế hệ xưa. Việc công chúng tiếp nhận những thông tin từ những ca khúc dân gian đương đại, nếu nhìn sâu hơn điều này đã phản ánh được chức năng thẩm mỹ và chức năng giáo dục truyền thống của nó. Nó là minh chứng cho thấy vẻ đẹp âm nhạc không cần phải hướng đến một mẫu số chung. Thật sai lầm khi trông đợi âm nhạc chỉ mang vẻ đẹp thuần túy, đơn nhất của sự tạo tác, trau chuốt về hòa thanh, giai điệu, kỹ thuật nhưng thiếu đi cái bản sắc, cái riêng biệt trong mỗi văn hóa sản sinh ra nó.


Để sáng tác, phối khí và biểu diễn thành cơng thể loại này, người nhạc sỹ, ca sỹ khơng chỉ cần có kiến thức và kỹ thuật biểu diễn âm nhạc, mà rất cần phải có sự am hiểu về văn hóa dân gian nói chung, âm nhạc dân gian Việt Nam nói riêng. Chỉ khi có được điều đó, họ mới thực sự thành công với thể loại này. Một lần nữa, văn hóa trở thành lời giải, thành đích đến của đỉnh cao nghệ thuật. Đó cũng là một sự định hướng, là bài học kinh nghiệm quý được đúc rút từ cá nhân người viết và những nhạc sỹ, ca sỹ cùng thế hệ gửi gắm đến những nhạc sỹ, ca sỹ tương lai.


<i>đương đại trong chương trình “Bài hát Việt” (2005 </i><i>- 2012),</i> Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.


2. Dương Viết Á (2005), <i>Âm nhạc Việt Nam từ </i><i>góc nhìn văn hóa, </i>Nxb. Hà Nội, Hà Nội.


3. Đào Việt Hưng (1999), <i>Tìm hiểu điệu thức </i><i>dân ca người Việt Bắc Trung bộ, </i>Viện Âm nhạc, Nxb. Âm nhạc, Hà Nội.


4. Lê Yên (1994), <i>Những vấn đề cơ bản về âm </i><i>nhạc tuồng, </i>Nxb. Thế giới, Hà Nội.


5. Nguyễn Trung Kiên (2001), <i>Phương pháp sư </i><i>phạm thanh nhạc,</i> Viện Âm nhạc xuất bản, Hà Nội.


6. Nguyễn Thụy Loan, (1994), <i>Lược sử âm nhạc </i><i>Việt Nam</i>, Nxb. Âm nhạc, Hà Nội.


7. Nguyễn Đăng Nghị (2009) “Ca khúc dân gian đương đại”, <i>Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật</i> (9).


8. Nguyễn Đăng Nghị (2011), <i>Bay lên từ truyền </i>
<i>thống</i>, Nxb. Văn hóa - Thơng tin và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.


9. Phạm Ngọc Khuê (2014), <i>Yếu tố dân gian </i><i>trong ca khúc đương đại Việt Nam</i>, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.


10. Trần Bảo Lân (2007), <i>Những yếu tố dân </i><i>gian trong ca khúc Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 - </i><i>2007),</i> Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Viện Nghiên cứu Văn hóa, Hà Nội.


11. Trần Tiến (2000), ý kiến tại cuộc Hội thảo


<i>Những vấn đề sáng tác và biểu diễn hiện nay,</i> Hà Nội.12. Tô Vũ, (2002), <i>Âm nhạc Việt Nam truyền </i><i>thống & hiện đại,</i> Viện Âm nhạc, Hà Nội.


13. Tơ Vũ, Chí Vũ, Thụy Loan (1977), “Âm nhạc phương Tây đã thâm nhập vào Việt Nam như thế nào”, <i>Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật</i> (4).


14. V.A. Vakhramêép (Vũ Tự Lân dịch, 1982),


<i>Lý thuyết âm nhạc cơ bản,</i> Nxb. Văn hóa, Hà Nội.15. Vũ Thược, “Dân gian đương đại - lắng đọng để trở lại”, http://baihatviet.vtv.vn/New/Details/307


Ngày nhận bài: 10 - 02 - 2020

</div><!--links-->