Bài văn biểu cảm về bảo vệ ài nguyên biển

Đất ngập nước (ĐNN) là hệ sinh thái quan trọng và đóng góp rất lớn trong việc tạo nên sự đa dạng sinh học trên Trái Đất. Hệ sinh thái này từ kỉ cacbon là môi trường đầm lầy, đã sản sinh ra nhiều nhiên liệu hóa thạch mà hiện con người đang sử dụng. ĐNN rất quý, nó là những nguồn tài nguyên có giá trị kinh tế cao, là bồn chứa cacbon, nơi bảo tồn gen và chuyển hóa các vật liệu hóa học, sinh học. Kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy, giá trị kinh tế của ĐNN lên tới 14,9 nghìn tỷ USD, chiếm 45% tổng giá trị của tất cả hệ sinh thái tự nhiên trên toàn cầu. Con số này phản ánh các giá trị và chức năng lớn lao của ĐNN. ĐNN đôi khi còn được mô tả như những “quả thận của sinh cảnh” do chúng thực hiện các chu trình thủy văn và hóa học, là những nơi thu nhận ở hạ nguồn các chất thải có nguồn gốc tự nhiên và nhân sinh. Chúng làm sạch nước ô nhiễm, ngăn ngừa ngập lụt, bảo vệ bờ biển và tái nạp tầng chứa nước ngầm. Đồng thời, ĐNN còn là nơi cư trú của nhiều động thực vật hoang dã quý hiếm.

Định nghĩa về ĐNN: Thuật ngữ ĐNN được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tùy theo quan điểm, người ta có thể chấp nhận các định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, định nghĩa về ĐNN được sử dụng rộng rãi là định nghĩa theo Công ước Ramsar năm 1971 (Điều 1.1) là “Các vùng đầm lầy, đầm lầy đất trũng, vùng đất than bùn hoặc nước, tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có nước đứng hay chảy, nước ngọt, lợ hay mặn, kể cả những vùng nước biển với độ sâu ở mức triều thấp, không quá 6m”.

Qua đó, Theo bảng phân loại của Văn phòng ĐNN Á Châu (AWB) và của Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN – 1990), ĐNN Việt Nam bao gồm Các vùng biển nông, các cửa sông, các đầm lầy, rừng ngập mặn ảnh hưởng ngập của thủy triều, các đụn cát ven biển, đầm, phá nước mặn, nước lợ, các hệ thống đồng bằng châu thổ ngập mùa, vùng trũng ngập úng, đầm nội địa, các hệ thống sông, hồ tự nhiên hoặc nhân tạo.

1. Thực trạng ĐNN Việt Nam:

Lãnh thổ Việt Nam trải dài từ phía Bắc xuống phía Nam, do địa hình chia cắt mạnh mẽ, cùng với lượng mưa trung bình năm là tương đối cao, nên mạng lưới sông suối tương đối dày, mật độ lưới sông từ dưới 0,5 km/km2 đến 2 km/km2. Trên phần lục địa, có 16 lưu vực sông chính, trong đó, 10 lưu vực sông có diện tích hơn 10.000 km2, chiếm 80% diện tích cả nước. Hai hệ thống sông lớn nhất là sông Hồng ở miền Bắc và sông Mê Kông - Cửu Long ở miền Nam gồm hai đồng bằng lớn là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Vùng biển có bờ biển dài khoảng 3.260 km với hàng nghìn đảo lớn nhỏ ven bờ, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã tạo ra nhiều vùng ĐNN.

ĐNN ngập nước ở Việt Nam có diện tích khoảng 10 triệu ha, phân bố trên tất cả 8 vùng sinh thái, hai vùng là BĐSCL và châu thổ sông Hồng có diện tích ĐNN lớn nhất, ĐNN trồng lúa chiếm khoảng 4,1 triệu ha.

Các vùng đất ngập mặn nội địa lớn như Đồng Tháp Mười, U Minh và hệ thống suối là nơi chứa nhiều loài động, thực vật đặc hữu.

Các hệ sinh thái nước ngọt có khoảng 2.611 loài thủy sinh vật, 1.403 loài tảo biển, 190 loài giáp xác, 147 loài trai ốc, 54 loài cá, 157 loài động vật nguyên sinh,...

Các hệ sinh thái ĐNN ven biển (rừng ngập mặn, rạn san hô, cỏ biển, đầm phá, cửa sông,...) là nơi cư trú của nhiều loài cá, chim di cư, cỏ biển, rong tảo,...

Ở vùng ven biển Việt Nam đã xác định được 350 loài San hô tạo rạn (sống gắn bó cùng với 2.000 loài sinh vật đáy, cá và nhiều loài hải sản khác), 15 loài cỏ biển, 667 loài rong biển, 94 loài thực vật ngập mặn.

Hệ sinh thái ĐNN ở Việt Nam rất đa dạng:

- Các vùng có HST hoàn toàn nước ngọt như: sông, suối, hồ, ao, ruộng lúa, thủy vực ngầm trong hang đá, trảng cỏ ngập nước theo mùa…

- HST vùng nước lợ như: đầm lầy, kênh rạch, đầm lầy than bùn, cửa sông…

- HST vùng biển, ven bờ, đảo trên vùng biển như: rừng ngập mặn, bãi triều, vũng - vịnh...

- HST ĐNN vùng biển đảo và vùng nội địa được đánh giá có tính ĐDSH cao bởi sự cấu trúc thành phần các loài thực vật, động vật. Việt Nam có trên 3.000 hòn đảo lớn nhỏ trong đó nhiều đảo có diện tích lớn như Hoàng Sa, Trường Sa, Phú Quý, Phú Quốc, Côn Đảo, Cô Tô, Bạch Long Vĩ, Cát Bà, Hòn Mê, Cồn Cỏ, Lý Sơn,...

2. Vai trò của hệ sinh thái ĐNN:

  1. Vai trò đối với thiên nhiên và môi trường:

- Lọc nước thải: một vùng ĐNN có giá trị khoảng vài chục hectar sẽ có khả năng lọc và xử lý nước thải tương đương với một trạm xử lý nước nhiều triệu USD. Ước tính khoảng 70%N-NH4, 99% nitrit và N-NO3 và 95% P tổng số hòa tan được loại bỏ khi nước thải đi qua ĐNN.

- Giữ và ổn định nước ngầm: nước được thấm từ các vùng ĐNN xuống các tầng ngập nước trong lòng đất, nước được giữ ở đó và điều tiết thành dòng chảy bề mặt ở vùng ĐNN khác cho con người sử dụng.

- Hạn chế ảnh hưởng lũ lụt: bằng cách giữ và điều hoà lượng nước mưa như “bồn chứa” tự nhiên, giải phóng nước lũ từ từ, vì vậy có thể làm giảm hoặc hạn chế lũ lụt ở vùng hạ lưu.

- Điều hòa khí hậu, chống xói mòn, ổn định bờ biển, chắn gió bão: nhiều nghiên cứu cho thấy, ĐNN có thể làm giảm những tác động từ biến đổi khí hậu, mặc dù chúng chỉ chiếm 6-8% diện tích bề mặt Trái đất do chu trình trao đổi chất và nước trong các hệ sinh thái. Nhờ lớp phủ thực vật của ĐNN, sự cân bằng của O2 và CO2 trong khí quyển làm cho vi khí hậu địa phương được ổn định, đặc biệt là nhiệt độ và lượng mưa.

- Các HST ĐNN ven biển: rừng ngập mặn còn có vai trò trong việc mở rộng đất đai, bồi tụ và tạo vùng đất mới. Ví dụ trong 60 năm gần đây, vùng bán đảo Cà Mau được bồi thêm khoảng 8.300ha.

- Là nơi trú chân của nhiều loài động vật hoang dã, đặc biệt là các loài chim nước, trong đó có nhiều loài quý hiếm, có ý nghĩa quốc tế. Các HST rừng ngập mặn và rừng tràm có nhiều giá trị trong việc cung cấp sản phẩm, duy trì cân bằng sinh thái và bảo tồn thiên nhiên, cung cấp nơi kiếm ăn, khu cư trú cho các loài chim qúi hiếm như: Sếu đầu đỏ, Cồng cộc, Ô tác, Giang sen,...

  1. Vai trò đối với con người:

- ĐNN là những hệ sinh thái có năng suất cao, cung cấp cho con người nhiều loại nhiên liệu, thức ăn, cung cấp 20% nguồn thực phẩm trên toàn cầu.

- Hàng năm, ĐBSCL cung cấp trên 40% tổng sản lượng lương thực của cả nước và là nơi cư ngụ của trên 17 triệu người, sản lượng lương thực và thủy sản của toàn đồng bằng đóng góp 1/3 tổng thu nhập quốc dân của cả nước.

- Rừng còn góp phần điều tiết nguồn nước ngọt, khí hậu, duy trì độ ẩm không khí và hạn chế quá trình bốc hơi, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.

- Cung cấp nguồn lợi thuỷ hải sản: cá, cua, tôm,…

- Ổn định nông nghiệp thông qua việc duy trì các mức nước. Ví dụ: lúa là một thực vật phổ biến của ĐNN, là nguồn thực phẩm của hơn một nửa nhân loại.

- Sản xuất gỗ: rừng ngập mặn, rừng tràm,…

- Cung cấp các nguồn năng lượng, như than bùn và khoáng vật. Rừng tràm có khoảng 305 triệu tấn than bùn.

- Các nguồn tài nguyên động vật hoang dã: các vùng ĐNN hỗ trợ cuộc sống của rất nhiều quần thể chim, động vật có vú, bò sát, lưỡng cư, cá và các loài động vật không xương sống,…

- Các cơ hội giải trí và du lịch: các vùng ĐNN còn có các đặc tính đặc biệt về di sản văn hoá của loài người. Các hệ sinh thái ĐNN có nhiều thuận lợi cho du lịch sinh thái, xây dựng các khu dự trữ sinh quyển, các vườn quốc gia,…

- Giao thông thủy: hầu hết các kênh rạch, sông, các vùng hồ chứa nước lớn, vùng ngập lụt thường xuyên hay theo mùa,…đặc biệt vùng ĐBSCL giao thông thủy đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống cũng như phát triển kinh tế của các cộng đồng địa phương.

Tuy nhiên, trong 15 năm qua, diện tích ĐNN tự nhiên đã giảm đi, diện tích ĐNN nhân tạo tăng lên. Cụ thể là các khu rừng ngập mặn tự nhiên ven biển đã mất dần, thay vào đó là các đầm nuôi thủy sản, các công trình du lịch và một số ít diện tích rừng trồng. Diện tích rừng ngập mặn đã giảm 183.724ha trong 20 năm qua (từ năm 1995). Trong khi diện tích nuôi trồng thủy sản đã tăng lên 1,1 triệu ha năm 2003. Trong vòng 38 năm (1954- 1992), vùng ven bờ biển Hải Phòng, Quảng Yên đã dùng 6.039ha bãi triều ven biển để trồng lúa nước nên phần lớn bị bỏ hoang, một số ít vẫn trồng lúa nhưng năng suất rất thấp.

3. Nguyên nhân suy giảm HST ĐNN:

  1. Nguyên nhân do tự nhiên: như cháy rừng, thiên tai, địch họa,…
  1. Nguyên nhân do con người:

Chuyển đổi các sinh cảnh ven biển:

Các bãi triều ven biển là nơi sinh sống của hàng trăm loài thủy sản và các loài chim nước bản địa hoặc di cư. Việc cải tạo từng phần các bãi triều tại vùng cửa sông Hồng đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới nơi trú ngụ và kiếm ăn ưa thích của nhiều loài chim di cư như loài Cò thìa.

Nhiều khu vực ven biển với thảm cỏ biển và San hô là loài tạo nên những hệ sinh thái phong phú đa dạng vào bậc nhất hành tinh, đã bị biến thành các khu resort cao cấp và kho, cảng,…

Nhiều khu rừng ngập mặn, đầm phá, bãi triều ven biển đã bị cải tạo nhanh chóng với quy mô lớn thành các đầm nuôi tôm, bãi nuôi ngao và các hải sản khác đã khiến các khu rừng ngập mặn nguyên sinh gần như bị biến mất ở nhiều tỉnh. Kể từ năm 1943 đến nay, ít nhất 220.000 ha rừng ngập mặn và nhiều diện tích rạn san hô, thảm cỏ biển ở Việt Nam đã biến mất do hoạt động khai phá và phát triển nuôi trồng thủy sản. Do áp lực lớn về lợi nhuận, hầu hết hoạt động nuôi trồng thủy sản ở ven bờ và nội địa đã chuyển từ hình thức nuôi quảng canh sang thâm canh kém bền vững hơn, dẫn đến sự suy kiệt của rừng ngập mặn, mất sinh cảnh của nhiều loài chim nước và gây ô nhiễm môi trường.

Sự phát triển cơ sở hạ tầng:

Sự tăng trưởng nhanh về kinh tế của Việt Nam đã làm tăng tốc quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa, điều đó đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới các sinh cảnh tự nhiên, diện tích ĐNN. Nhiều đường giao thông mới đã chia cắt nhiều khu rừng ngập mặn, đồng ruộng, vườn Quốc gia và khu Bảo tồn thiên nhiên, hoặc tạo ra những rào cản đối với sự phân bố và di chuyển của nhiều loài động vật hoang dã, hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các mạng lưới buôn bán động vật hoang dã và gây áp lực lên quần thể các loài động, thực vật ở địa phương. Các đập và hồ chứa của thủy điện, ngoài việc tác động làm ngập các thung lũng vốn là rừng tự nhiên, còn tạo ra các rào cản đối với các loài cá di cư, làm thay đổi nhịp sống như thời kỳ sinh sản, sinh trưởng, tập tính kiếm mồi, của thuỷ sinh vật ở sông đã được hình thành từ hàng vạn năm, đồng thời cũng gây nhiều tác động tới dòng sông ở hạ lưu sau đập, thậm chí tới vùng cửa sông ven bờ. Nhiều công trình hồ chứa thuỷ điện không vận hành đúng quy trình, như chế độ xả lũ, điều tiết nước mùa khô,...đã gây ra các sự cố thiệt hại về người, về kinh tế, ảnh hưởng mạnh đến các hệ sinh thái vùng hạ lưu.

Khai khoáng: Việc khai thác khoáng sản, vật liệu xây dựng đã gây ra sự mất mát đáng kể sinh cảnh tự nhiên. Khai thác than bùn, dầu mỏ phá hủy nơi cư trú, môi trường sống của nhiều loài sinh vật, là một nguy cơ đối với các vùng đất ngập mặn. Khai thác bừa bãi cát, sỏi ở các lòng sông đã phá huỷ sinh cảnh của nhiều loài thủy sản và làm thay dổi dòng chảy của nhiều con sông. Việc khai thác mỏ thiếu bền vững có thể dẫn đến ô nhiễm đối với các hệ sinh thái thuỷ vực bởi sự lắng đọng hoá chất độc hại, gây ảnh hưởng tiêu cực tới ĐDSH và làm suy thoái chất lượng của các hệ sinh thái ĐNN.

Sự nhập nội các loài ngoại lai (ốc bươu vàng, rùa tai đỏ,…): Có những hành động vô tình hay cố ý con người đã để sự xâm nhập và phát triển của sinh vật ngoại lai có thể phá vỡ toàn bộ sự cân bằng hệ sinh thái và ảnh hưởng đến các quần thể động vật hoặc thực vật bản địa. Những kẻ xâm chiếm này có thể ảnh hưởng bất lợi cho các loài bản địa do quá trình sử dụng các loài bản địa làm thức ăn, làm nhiễm độc chúng, cạnh tranh với chúng hoặc giao phối với chúng.

Khai thác quá mức, tận diệt: săn bắn quá mức, đánh cá quá mức, hoặc thu hoạch quá mức một loài hoặc một quần thể có thể gây sự suy giảm của loài hoặc quần thể đó dẫn đến ảnh hưởng loài hoặc quần thể khác; như nhiều nơi khai thác tận diệt các thảm cỏ biển, san hô đến mức không thể phục hồi đã phá hủy toàn bộ hệ sinh thái ngập nước.

Ô nhiễm: Quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá diễn ra nhanh chóng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng nước. Nước thải sinh hoạt và công nghiệp chưa được xử lý đổ vào các sông, hồ, sự cố tràn dầu,... đã tác động xấu đến ĐDSH của các hệ sinh thái này. Mở rộng thâm canh nông nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật với nhiều nguồn gốc khác nhau được sử dụng ngày càng phổ biến và không kiểm soát được ở Việt Nam, đã góp phần làm suy thoái các quần thể sinh vật thủy sinh, chim và côn trùng ở các vùng nông thôn và ngoại ô thành phố. Nhiều loài chim có ích chuyên tiêu diệt côn trùng có hại đã bị tiêu diệt, dẫn đến bùng phát nhiều dịch bệnh trên đồng ruộng. Nuôi tôm, cá tra, ba sa theo hình thức công nghiệp với mật độ nuôi cao ở ĐBSCL cũng là một nguyên nhân gây ô nhiễm hữu cơ nhiều vực nước, tác động tới hệ sinh thái và quần xã thuỷ sinh ở đó.

  1. Nguyên nhân do tác động tiềm ẩn của Biến đổi khí hậu (BĐKH):

HST ĐNN là hệ rất nhạy cảm bởi sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của tự nhiên và con người, trong khi HST ĐNN của Việt Nam ở một số vùng được xác định quan trọng ở tầm quốc gia và quốc tế như các khu Ramsar ở Vườn quốc gia Xuân Thủy (Nam Định), Bàu sấu (Đồng Nai), Tràm Chim (Đồng Tháp), khu hồ Ba Bể (Bắc Kạn),… Đó là nơi nhằm bảo tồn HST, là nơi cư trú của các loài thực vật, động vật có giá trị kinh tế và giá trị bảo tồn các nguồn gen quý tự nhiên tạo nên sự ĐDSH cao của hệ. Trong trường hợp có sự tác động của BĐKH, các khu rừng ngập mặn sẽ bị chia cắt, phân mảnh thì khả năng tuyệt chủng của các loài voọc, khỉ, chim, dơi, sóc đỏ, sóc côn đảo, voọc bạc, sếu đầu đỏ,,... là rất cao, đây là những loài động vật rất nhạy cảm khi yếu tố môi trường và các HST bị thay đổi. Các nhà khoa học cảnh báo rằng, nếu không có giải pháp phù hợp để ngăn chặn, tạo thích ứng kịp thời thì với tình trạng BĐKH hiện nay thì chỉ đến giữa thế kỷ 21 này sẽ có khoảng 1/3 các loài động vật trên thế giới bị đe dọa tuyệt chủng.

Khu Ramsa VQG Xuân Thủy (Nam Định) Vườn quốc gia Tràm Chim (Đồng Tháp)

Theo các kịch bản dự báo về BĐKH, nhiệt độ trái đất nóng lên, mực nước biển sẽ dâng từ 75 cm đến 1 m vào năm 2100 thì có khoảng 20 đến 30% diện tích vùng thấp đồng bằng sông Cửu Long và 11% diện tích vùng đồng bằng sông Hồng bị ngập và sẽ có khoảng 78 sinh cảnh tự nhiên quan trọng, trong đó có 36 khu bảo tồn thiên nhiên, 8 vườn quốc gia và 11 khu dự trữ thiên nhiên kể cả các khu Ramsar sẽ bị ảnh hưởng. Có nghĩa là thành phần các loài thực vật, động vật hoang dã sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp như mất nơi sống, hoặc mất nguồn dinh dưỡng. Chẳng hạn các loài voọc, khỉ, dơi ngựa, các loài sóc, các loài chim ở vùng ĐNN chỉ sống và làm tổ trên các cành cây, nguồn thức ăn chủ yếu là quả, lá, côn trùng, nhưng khi thời tiết thay đổi, nắng mưa bất thường làm biến động nguồn thức ăn nơi ở sẽ là mối nguy cho sự tồn tại phát triển của các loài.

4. Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển HST ĐNN:

- Cần có những chế tài đủ mạnh để quản lý và phát triển HST ĐNN.

- Bảo vệ hiệu quả các rạn san hô, thảm cỏ biển những khu rừng ngập mặn còn sót lại hiện nay. Đồng thời, trồng gia cố, chăm sóc bảo vệ diện tích rừng ngập mặn đã được trồng trong những năm gần đây.

- Kiểm soát thường xuyên để kịp thời loại trừ có hiệu quả các loài sinh vật ngoại lai xâm hại trong HST ĐNN.

- Bảo đảm nguồn nước sạch, lưu thông chống ô nhiễm nguồn nước tại các khu ĐNN của vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu Ramsar trong các vùng miền của đất nước.

- Bảo vệ và trồng thật nhiều cây ven các sông, suối lớn, hồ lớn bằng các loài thực vật ưa ẩm, chịu được các điều kiện thay đổi về độ mặn, tạo hành lang xanh vững chắc để ngăn ngừa và làm nơi thích ứng cho cuộc sống của các loài khi thời tiết thay đổi thất thường.

- Cần có dự báo cụ thể trên cơ sở khoa học các vùng sẽ bị ảnh hưởng nặng (khoanh trên bản đồ) để có biện pháp ngăn ngừa, thích ứng khi có khí hậu cực đoan xảy ra. Triển khai các chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ theo dõi kiểm kê và giám sát sự diễn biến của ĐDSH như thảm cỏ, các rạn san hô, các loài chim, voọc, khỉ, sóc, dơi, các loài thủy sinh vật và các khu rừng ngập mặn dưới tác động của BĐKH qua từng thời kỳ.

- Xây dựng các tiêu chí hướng dẫn cộng đồng địa phương sử dụng khôn khéo các loài có giá trị kinh tế ở HST ĐNN ở các địa phương.

- Cần có chính sách phù hợp giúp cộng đồng địa phương phát triển nền kinh tế xanh nhằm góp phần cải thiện đời sống tinh thần và vật chất bằng các nguồn tài nguyên vùng ĐNN ở các địa phương (du lịch sinh thái bền vững), nuôi trồng các loài thủy hải sản có giá trị kinh tế.

- Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý các cấp, Bộ, cộng đồng về vai trò, chức năng quan trọng của HST ĐNN đối với cuộc sống hiện tại và tương lai. Có cơ chế phối hợp đồng bộ các cấp, các ngành có liên quan từ Trung ương đến địa phương.

Kết luận:

- HST ĐNN ở Việt Nam có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với nguồn tài nguyên ĐDSH, cuộc sống hiện tại và tương lai của con người.

- Trong các nguyên nhân gây suy giảm HST ĐNN thì nguyên nhân do con người chiếm phần lớn. Vì vậy, việc sử dụng khôn khéo để duy trì sự bền vững các HST ĐNN là một vấn đề mang tính cấp bách.

- Với phương châm bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế vì lợi ích của cộng đồng phải cần dựa trên những luận cứ khoa học nghiên cứu về đặc điểm của hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo.

- HST ĐNN Việt Nam phong phú, tuy nhiên hiện đang bị suy giảm. Các cơ quan quản lý Trung ương và địa phương cần phải có chủ trương gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, đồng thời củng cố nâng cao năng lực sẵn có của các HST ĐNN, bảo vệ và phát huy những tiềm năng ĐDSH trong các HST ĐNN ở Việt Nam./.

Hoàng Văn Thế

Tài liệu tham khảo:

1. Luật Đa dạng sinh học số 20/2008/QH12.

2. Bộ KH&CN, Viện KH&CN Việt Nam, 2007. Sách đỏ Việt Nam phần Động vật, NXB Khoa học Tự nhiên & Công nghệ VN.

3. Bộ TN&MT, 2012, Chiến lược quốc gia về Đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn 2030.

4. Lê Diên Dực, Hoàng Văn Thắng, 1992. Một số kết quả nghiên cứu bước đầu về chim di cư Khu bảo vệ Xuân Thủy Báo cáo Khoa học Hội thảo Khoa học Quốc gia, UBKHNN, Bộ GD&ĐT.

5. Đặng Huy Huỳnh, 1992. Quản lý và bảo vệ sự ĐDSH ở HST - RNM của Đồng bằng Sông cửu Long - Báo cáo khoa học - Hội thảo Khoa học Quốc gia UBKHNN, Bộ GD&ĐT.

6. Đặng Huy Huỳnh, 1987. Vấn đề khai thác sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên sinh vật ở đồng bằng sông cửu Long Tạp chí KHKT thành phố Hồ Chí Minh.

7. Mai Đình Yên, 2009. Sơ bộ phân tích tác động của biến đối khí hậu đến ĐDSH và hệ sinh thái cửa sông Hằng.

Tại sao chúng ta phải bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam?

Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Biển không chỉ chứa đựng tiềm năng kinh tế to lớn, cửa ngõ mở rộng quan hệ giao thương với quốc tế mà còn đóng vai trò quan trọng bảo đảm an ninh, quốc phòng đồng thời là địa bàn chiến lược trọng yếu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tại sao chúng ta phải bảo vệ môi trường biển?

Nếu môi trường biển bị ô nhiễm có thể gây hậu quả cho các khu vực khác. – Biển là một phần quyền thiêng liêng, cần phải bảo vệ và phát triển nó. Biển còn là nơi sinh sống của nhiều loài sinh vật, trong đó có con người, vì vậy việc bảo vệ môi trường biển là vấn đề cấp thiết và sống còn.

Chúng ta phải làm gì để bảo vệ môi trường biển?

Chẳng hạn như:.

Tinh thần du lịch vị thiên nhiên..

Lưu lại dấu ấn đáng nhớ.

Giúp môi trường biển luôn sạch đẹp..

Hạn chế dùng túi nilon..

Không vứt vỏ chai, hộp nhựa..

Giảm thiểu các rác thải thực phẩm..

Hỗ trợ tiêu diệt loài sao biển vương miện gai..

Bảo vệ san hô.

Tại sao phải sử dụng hợp lí tài nguyên biển?

Tài nguyên biển cung cấp đa dạng thực phẩm, dầu lửa, khoáng sản, nguyên liệu quý giá phục vụ cho cuộc sống con người và sự phát triển của kinh tế. Tài nguyên biển còn được ví như máy điều hòa nhiệt độ của Trái Đất và khí hậu Việt Nam nói riêng.