Bài học kinh nghiệm từ Hiệp định Paris

LỜI MỞ ĐẦU

 Cuộc đấu tranh bền bỉ trên mặt trận ngoại giao để chống lại sự xâm lược của quân đội Pháp và Mỹ.Trong cuộc đấu tranh lâu dài vì độc lập, thống nhất Tổ quốc, nước ta đã bốn lần đàm phán và ký Hiệp định ngoại giao: Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, Tạm ước 14-9-1946, Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 và Hiệp định Pa-ri 1973. Đàm phán Pa-ri là đỉnh cao của mặt trận đấu tranh ngoại giao trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Những bài học thắng lợi của Hiệp định Pa-ri có ý nghĩa như một mốc son của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

 Từ Hiệp định Paris, quân xâm lược Mỹ đã phải cuốn cờ rút khỏi đất nước Việt Nam (diễn ra chính thức vào ngày 28/3/1973), tạo lợi thế xoay chuyển cho cách mạng Việt Nam, từng bước dẫn đến ngày toàn thắng 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 25/1/2013, tại lễ kỷ niệm 40 năm ký Hiệp định Paris, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã phát biểu: “Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh ngoại giao dài nhất, khó khăn nhất trong lịch sử ngoại giao nước ta ở thế kỷ XX; đánh dấu thắng lợi lịch sử của nhân dân ta sau hơn 19 năm đấu tranh kiên cường, bất khuất trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao chống Mỹ xâm lược . Hiệp định Paris là đỉnh cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam”.

 Phát biểu với báo chí nhân kỷ niệm 40 năm ký Hiệp định Paris, ông Trịnh Ngọc Thái, thành viên đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Pháp, đã khẳng định: “Cuộc đàm phán Paris về Việt Nam đã trở thành trung tâm chú ý của dư luận thế giới vì cuộc đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là tâm điểm của những mâu thuẫn cơ bản của thời đại lúc bấy giờ. Việc ký kết Hiệp định là sự tháo nút cho cuộc chiến tranh ác liệt và lâu dài nhất trên thế giới sau chiến tranh thế giới lần thứ hai... Đàm phán Paris được đánh giá là cuộc đấu trí căng thẳng giữa 2 nền ngoại giao. Đó là nền ngoại giao trên thế mạnh của Mỹ và nền ngoại giao nhân văn của Việt Nam”.

  Khi nhìn lại sự kiện ký kết Hiệp định Paris, chúng ta rút ra nhiều bài học quan trọng và có thể vận dụng vào việc xử lý các vấn đề đối ngoại trong giai đoạn hiện nay. Vai trò và tầm quan trọng của đấu tranh ngoại giao đã góp phần thắng lợi của CM Việt Nam, từ đó để lại những bài học cho ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Phần 1: Hiệp định Giơnever (1954) và Hiệp định pari (1973)

1.1Hiệp định Giơnever (1954)

1.1.1.Hoàn cảnh lịch sử

  *)Về phía ta :Thắng lợi của quân dân ta trong cuộc tiến công chiến lược đông – xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) đã đập tan cố gắng quân sự cao nhất và cũng là cố gắng cuối cùng của thực dân Pháp và sự giúp sức của đế quốc Mĩ. Và thắng lợi đó giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh và tạo cơ sở thực lực về quân sự cho cuộc đấu tranh ngoại giao để kết thúc cuộc kháng chiến.

 *)Về phía địch :Cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương trở thành gánh nặng kinh tế và xã hội đối với nước Pháp. Họ muốn dẫn tới một giải pháp thương lượng trên thế mạnh, vì thế đã quyết định tranh thủ viện trợ từ phía nước Mỹ nhằm thực hiện kế hoạch quân sự Nava với hy vọng tìm lối thoát trong danh dự. Nhưng nỗ lực cuối cùng này cũng đã bị thất bại sau khi thất thủ ở Điện Biên Phủ (7-5-1954).

*)Về mặt quốc tế: Nguyện vọng của nhân dân trên toàn thế giới là hoà bình. Cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), thực chất chỉ là một cuộc đọ sức giữa hai phe với nhau, đi đến kết thúc mà không phân thắng bại. Xu thế hoà hoãn đã bắt đầu xuất hiện trong quan hệ quốc tế. Vào tháng 1-1954, Hội nghị Ngoại trưởng 4 nước Liên Xô, Mĩ, Anh và Pháp ở Béclin thoả thuận việc triệu tập một Hội nghị quốc tế để giải quyết vấn đề chia cắt ở Triều Tiên và chấm dứt chiến tranh, lập lại nền hoà bình ở Đông Dương.Căn cứ vào điều kiện của cuộc kháng chiến cũng như so sánh lực lượng giữa ta với thực dân Pháp và xu thế chung của thế giới là giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng hòa bình, vì thế Việt Nam đã ký kết hiệp định Giơnevơ ngày 21/7/1954.

1.1.2Nội dung: Các nước tham dự Hội nghị cam kết rằng tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia : độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước này.

 - Các bên tham chiến đã gác súng,ngừng bắn, lập lại hoà bình trên toàn lãnh thổ  Đông Dương.

 - Các bên tham chiến tiến hành cuộc tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực.

+ Việt Nam, quân đội nhân dân Việt Nam cùng quân đội viễn chinh Pháp tập kết ở hai miền Bắc – Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời cùng một khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến.

+ Đối với lực lượng kháng chiến Lào, tập kết ở Sầm Nưa và Phong xa lì

+ Đối với Campuchia, lực lượng kháng chiến phục viên tại chỗ, không có vùng tập kết.

 - Cấm đưa quân đội nhân viên quân sự và vũ khí nước ngoài vào ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia). Các nước Đông Dương không được tham gia khối liên minh quân sự nào và không để các nước dùng lãnh thổ của mình vào việc gây chiến tranh hoặc phục vụ mục đích xâm lược.

 - Việt Nam tiến tới thống nhất đất nước bằng cuộc tổng tuyển cử trong cả nước tổ chức (7-1956), dưới sự kiểm soát và giám sát của một Uỷ ban quốc tế gồm các nước : Ấn Độ, Ba Lan, Canada và do Ấn Độ làm Chủ tịch.

 - Trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ thuộc về những người kí Hiệp định và những người kế tục sau họ.

1.1.3.Ý nghĩa:

- Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương là văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận những quyền dân tộc cơ bản của các nước Đông Dương và được các cường quốc cùng các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng quyền của dân tộc.

-Cùng với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, buộc thực dân Pháp phải rút hết quân đội về nước, lập lại hoà bình ở khu vực Đông Dương, làm thất bại âm mưu kéo dài mở rộng và quốc tế hóa chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ ở Đông Dương. Với Hiệp định này, miền Bắc nước ta được giải phóng hoàn toàn, đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc trở thành hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.

-Với việc kí Hiệp định Giơnevơ, thể hiện sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chính phủ ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kết hợp đấu tranh quân sự với chính trị và ngoại giao. Để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các cuộc đấu tranh ngoại giao của nước ta sau này.

- Hiệp định đã đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta, song chưa trọn vẹn vì mới giải phóng được miền Bắc. Cuộc đấu tranh cách mạng vẫn còn phải tiếp tục nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

1.2. Hiệp định Pari (1973)

1.2.1.Hoàn cảnh lịch sử :

- Vào ngày 31-3-1968, sau đòn bất ngờ của Tổng tiến công nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Mĩ bắt đầu nói đến về thương lượng.

- Tháng 5-1968 đàm phám hai bên: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Hoa Kì

- Tháng 1-1969 đàm phán bốn bên: Có thêm mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa. Cuộc đàm phán diễn ra gay gắt, nhiều lúc phải gián đoạn.

- Sau thất bại trận “Điện biên phủ trên không” Mĩ buộc phải kí hiệp định Pari (27-1-1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

1.2.2.Nội dung:

- Hoa Kì đã cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

- Hai bên đã ngừng bắn ở miền Nam, Hoa kì cam kết chấm dứt mọi hoạt động quân sự chống miền Bắc Việt Nam.

- Hoa Kì cam kết rút hết quân đội của mình và quân đồng minh. Cam kết không dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.

- Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài.

- Các bên thừa nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị .

- Hai bên trao trả tù binh và dân thường bị bắt cho nhau.

- Hoa Kì cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương .

1.2.3.Ý nghĩa:

- Hiệp định Pa ri về VN là thắng lợi của sự kết hợp của đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của quân và dân hai miền Nam, Bắc, mở ra bước ngoặc mới của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.

- Mĩ phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, rút hết sạch quân về nước. Đó là thắng lợi lịch sử quan trọng, tạo ra thời cơ thuận lợi, để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam đất nước.

Phần :2.Bài học cho ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

2.1.Bài học về vấn đề ngoại giao qua 2 hiệp định

*)Hiệp định Giơnever (1954)

- Thứ nhất là bài học coi lợi ích quốc gia, dân tộc vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc cao nhất trong đối ngoại, ngoại giao chỉ phát huy vai trò và công dụng trên nền tảng sức mạnh tổng hợp của đất nước được thể hiện trên mọi phương diện: kinh tế, chính trị, quân sự... Thực sự, chúng ta chỉ có thể giành được thắng lợi trên bàn đàm phán khi chúng ta giành được chiến thắng trên chiến trường. Thắng lợi về quân sự ở Điện Biên Phủ góp phần quyết định vào thắng lợi về ngoại giao ở Giơnevơ.

- Thứ hai là bài học giữ vững độc lập, tự chủ trong đối ngoại, trong quá trình đàm phán, chúng ta phải quán triệt quan điểm nhân nhượng có nguyên tắc. Rõ ràng, khi chấp nhận cùng nhau đàm phán tức là mỗi bên đều có điểm mạnh, yếu của mình; trên bàn đàm phán, bên nào cũng cố gắng giành phần có thể và nhân nhượng cho đối phương những điều mình chưa thể. Vì vậy, trong quá trình đàm phán, sự nhân nhượng lẫn nhau là điều tất yếu nhưng điều không bao giờ được phép nhân nhượng là độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Hiệp định Giơnevơ là ví dụ điển hình của việc thực hiện nguyên tắc đó. Mặc dù Hiệp định có những điều khoản chưa hoàn toàn thỏa nguyện đối với phía ta nhưng vấn đề cốt tử là độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ thì ta kiên quyết bảo vệ và đã được các nước thừa nhận. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc nhưng sách lược của ta phải linh hoạt”(4). Vì thế, trong quá trình đàm phán, nhà ngoại giao phải biết nhân nhượng đúng mức, không quá tả để phá vỡ đàm phán, không quá hữu để tổn hại đến lợi ích cơ bản của dân tộc. Nguyên tắc đó của Hội nghị Giơnevơ cho đến nay vẫn nguyên vẹn giá trị thời sự: không bao giờ vì một tình hữu nghị viển vông, mơ hồ nào mà nhân nhượng lợi ích cốt lõi của dân tộc, đó là chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng.

- Thứ ba là bài học về tầm quan trọng của sự kết hợp giữa quân sự, chính trị và ngoại giao để tạo nên sức mạnh tổng hợp, hoạt động ngoại giao phải nhất quán nguyên tắc độc lập, tự chủ, bởi mỗi quốc gia, kể cả quốc gia đồng minh thân cận cũng đều xử lý vấn đề quốc tế trên cơ sở lợi ích quốc gia.

- Thứ tư, là bài học về nghệ thuật biết thắng từng bước sự duy lợi trong quan hệ quốc tế là một thực tế hiển nhiên. Nếu trong đấu tranh cách mạng, phải “mang sức ta mà giải phóng cho ta” thì trong đấu tranh ngoại giao, số phận của dân tộc mình phải do chính mình tự định đoạt. Bài học kinh nghiệm từ Hội nghị Giơnevơ giúp chúng ta vững vàng hơn, độc lập, tự chủ hơn, để đến Hội nghị Pari năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành đàm phán trực diện với Mỹ. Tại Hội nghị Pari, sự độc lập, tự chủ của ta thể hiện rõ, từ thành phần, nội dung, thời gian đàm phán đến hình thức đàm phán....

- Thứ năm là bài học kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh dư luận, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế.Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận ký Hiệp định Giơnevơ để lập lại hòa bình ở Đông Dương vì muốn tránh một cuộc đối đầu không cân sức với đế quốc Mỹ khi dã tâm can thiệp của đế quốc này vào Đông Dương ngày càng bộc lộ. Bằng việc nắm lấy ngọn cờ hòa bình, chúng ta muốn ngăn chặn Mỹ nhảy vào Đông Dương.

*)Hiệp định Pari (1973)

- Thứ nhất là phải giữ vững các nguyên tắc trên tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Lập trường của ta trong các cuộc đàm phán là luôn khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam; lên án tội ác chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên hai miền Nam, Bắc Việt Nam; đòi Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam; yêu cầu chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam của Mỹ… Chúng ta đã linh hoạt ứng xử trong các tình huống cụ thể nhưng không bao giờ từ bỏ các nguyên tắc đó và chúng ta đã chiến thắng…

 Hiện nay, trong vấn đề chủ quyền của Việt Nam ở biển Đông, chúng ta cũng đã giữ vững quan điểm Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi ở biển Đông, trong đó có các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, và điều đó là “bất biến”. Trong từng điều kiện cụ thể, chúng ta có thể có thể linh hoạt thực hiện các biện pháp đấu tranh, bảo vệ chủ quyền sao cho phù hợp với luật pháp quốc tế và điều kiện thực tế của đất nước, ấy chính là “vạn biến”.

- Thứ hai, phải luôn kiên quyết, kiên trì, sử dụng đồng thời các thắng lợi khác để bổ trợ cho công tác đối ngoại. Thắng lợi của Hiệp định Paris là một thắng lợi về mặt ngoại giao nhưng cũng là thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam cả về chính trị, quân sự… Nếu không có từng chiến thắng ở các chiến dịch, trận đánh cụ thể thì Mỹ không bao giờ chịu ngồi vào bàn đàm phán, hoặc không bao giờ từ bỏ các yêu sách phi lý của mình. Trong đó, thắng lợi ở trận “Điên Biên Phủ trên không” cuối năm 1972 đã bẻ gãy hoàn toàn ý chí xâm lược của Mỹ và buộc Mỹ phải chấp nhận đàm phán cũng như chấp nhận các đề nghị của Việt Nam.

 Vận dụng bài học này, để khẳng định quan điểm của Việt Nam trong các đàm phán quốc tế, cần thể hiện vị thế của nước ta ở nhiều lĩnh vực, nhất là chính trị, kinh tế, văn hóa và cả quân sự. Như trong các đàm phán thương mại song phương, có đối tác đưa ra các yêu sách phi lý về nhân quyền, về các vấn đề nội bộ, về nền kinh tế thị trường…; bên cạnh việc kiên trì giải thích, thuyết phục, chúng ta luôn chứng minh bằng các lý lẽ cụ thể về các thành tựu bảo vệ quyền con người ở nước ta, về uy tín của đất nước trên trường quốc tế, về tính hội nhập và đặc điểm thị trường của nền kinh tế…

- Thứ ba, tôn trọng các cam kết nhưng không bao giờ mất cảnh giác. Ngay trước và sau Hiệp định Paris, chính quyền Sài Gòn liên tiếp vi phạm Hiệp định bằng cách ráo riết thực hiện Chiến dịch Tràn ngập lãnh thổ từ đêm 24/1/1973 và hàng loạt kế hoạch quân sự trong toàn bộ năm 1973, đầu năm 1974; đồng thời thực hiện các kế hoạch như Hùng Vương, Lý Thường Kiệt (1973 - 1974) và kế hoạch toàn diện lâu dài (1973 - 1978) nhằm nhanh chóng bình định miền Nam Việt Nam… Đối phó với âm mưu, thủ đoạn này, ta đã có nhiều giải pháp từ trong nội bộ và hành động cụ thể về mặt chính trị, quân sự và từng bước làm phá sản các kế hoạch của địch trước khi đánh đổ hoàn toàn chế độ này...

 Hiện nay, chúng ta ký kết nhiều thỏa thuận, hiệp định, hiệp ước song phương, đa phương với nhiều đối tác. Trong quá trình thực hiện, không tránh khỏi những cách hiểu khác nhau, sự vận dụng khác nhau vào từng thời điểm, thậm chí có cả những âm mưu, thủ đoạn phá hoại. Do đó, bài học cảnh giác vẫn phải luôn được thực hiện một cách thường xuyên và triệt để.

- Thứ tư, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế nhưng phải dựa vào sức mình là chính. Hiệp định Paris là “niềm cổ vũ lớn lao đối với nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, những người đã đồng hành ủng hộ, giúp đỡ nhân dân ta trong suốt cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, dõi theo từng diễn biến trên chiến trường cũng như trên bàn đàm phán tại Paris. Hiệp định Paris là sự minh chứng hùng hồn cho chân lý “đại nghĩa thắng hung tàn, chí nhân thay cường bạo”, củng cố niềm tin của nhân dân yêu chuộng hòa bình và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới vào sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa”, như phát biểu của Chủ tịch Trương Tấn Sang tại lễ kỷ niệm 40 năm ngày ký Hiệp định này. Tuy nhiên, nếu bản thân cách mạng Việt Nam không tự lực, tự cường thì không thể đi đến Hiệp định cũng không thể đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân tiến bộ trên thế giới…

 Hiện nay, việc xử lý các vấn đề liên quan đến chủ quyền trên biển Đông của Việt Nam cơ bản được thế giới đánh giá cao và ủng hộ. Như trong cuộc đấu tranh với việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam năm 2014, gần như cả thế giới đứng về phía Việt Nam. Tuy nhiên, sự ủng hộ đó chỉ trở thành sức mạnh vật chất thực sự khi kết hợp với các sức mạnh khác từ nội lực của chúng ta, như về chính trị, kinh tế, ngoại giao, kể cả sức mạnh quốc phòng.

2.2. Những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trên mặt trận ngoại giao hiện nay

- Một là công tác đối ngoại đã góp phần tiếp tục duy trì, củng cố môi trường hòa bình ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ XHCN.Việc chúng ta cơ bản phân định xong biên giới trên bộ với Trung Quốc, Lào và phần lớn biên giới với Cam-pu-chia, phân định xong Vịnh Bắc Bộ cũng như đạt được các thỏa thuận pháp lý trên biển với các nước ASEAN là nhân tố then chốt cho việc xây dựng vùng biên giới hòa bình, hợp tác và phát triển giữa Việt Nam với các nước láng giềng. Thực tiễn cho thấy sau khi các vùng biên giới trên bộ và trên biển được phân định, tình hình an ninh biên giới cơ bản ổn định, nhân dân hai bên đường biên đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, nhất là phát triển kinh tế. Vịnh Bắc Bộ sau khi phân định đã trở thành vùng biển hữu nghị, hợp tác và là một ví dụ điển hình về phân định biển thành công trên cơ sở luật pháp quốc tế. Trong khi tích cực giải quyết vấn đề còn tồn đọng về biên giới, lãnh thổ, đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta cũng nỗ lực thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng. Làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu, phối hợp tốt với các bộ, ngành, các địa phương và các cơ quan chức năng theo dõi sát chính sách của các nước liên quan, nhất là các nước lớn, theo dõi các phát triển của tình hình trên thực địa, cả trên bộ và trên biển. Trên cơ sở đó, chúng ta mới có thể kịp thời đề xuất các biện pháp hiệu quả bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, đẩy mạnh hợp tác vì lợi ích của Việt Nam cùng các nước liên quan, vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng trong khu vực.

- Hai là công tác đối ngoại đã đẩy mạnh triển khai chủ trương tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, đưa quan hệ với các đối tác ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, phục vụ thiết thực cho sự phát triển của đất nước. Thông qua công tác biên giới, lãnh thổ, chúng ta tiếp tục chủ động và tích cực góp phần tham gia vào việc xây dựng, định hình, củng cố các cơ chế, luật pháp, chuẩn mực trong quan hệ giữa các quốc gia ở cấp độ song phương và đa phương. Chúng ta đề cao Hiến chương Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của quan hệ quốc tế, trong đó có những nguyên tắc về không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, hợp tác trên tinh thần bình đẳng giữa các nước có chủ quyền, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi; tiếp tục đề cao luật pháp quốc tế như Công ước UNCLOS 1982, là cơ sở cho việc giải quyết chồng lấn cũng như hợp tác trên biển. Chúng ta cũng góp phần xây dựng những luật lệ, chuẩn mực ở khu vực thông qua các tiến trình đa phương của ASEAN, như việc xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) phù hợp với luật pháp quốc tế. Lập trường nói trên của Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các nước trong và ngoài khu vực.Cùng với việc mở rộng và đưa quan hệ với các đối tác vào chiều sâu, tích cực tăng cường quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, chúng ta tiếp tục đề cao chủ nghĩa đa phương và tinh thần thượng tôn pháp luật. Ngoại giao Việt Nam cần tiếp tục cùng các quốc gia chủ động đẩy mạnh việc đưa chủ nghĩa đa phương và tinh thần thượng tôn pháp luật trở thành giá trị chung, lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Trong đó, công việc có ý nghĩa quan trọng đặc biệt là đề cao và bảo vệ Hiến chương Liên hợp quốc, các nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế và hệ thống các điều ước quốc tế của Liên hợp quốc, trong đó có UNCLOS 1982, như các chuẩn mực căn bản của quan hệ quốc tế hiện đại. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm trong vai trò Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, góp phần thực hiện chủ trương này.

- Ba là vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.Chúng ta cũng đã mở rộng hợp tác quốc tế nhằm biến Biển Đông thành một khu vực hòa bình, ổn định và phát triển trên cơ sở của UNCLOS 1982. Ngành đối ngoại đã cùng các nước trong khu vực tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, diễn đàn quốc tế tại Việt Nam nhằm tăng cường hiểu biết và nâng cao hiệu quả thực thi, áp dụng UNCLOS 1982 ở Biển Đông, nhất là trong năm 2019 kỷ niệm 25 năm UNCLOS 1982 có hiệu lực. Chúng ta đã có nhiều sáng kiến khu vực để tiếp tục đề cao thượng tôn pháp luật trên biển, đề cao tính toàn vẹn và nhất quán trong diễn giải và áp dụng UNCLOS 1982 tại khu vực.Phát huy hơn nữa vai trò của ASEAN như một cơ chế, công cụ hữu hiệu nhằm thúc đẩy tinh thần thượng tôn pháp luật ở tầm khu vực. Ngoại giao Việt Nam cần cùng các nước trong khu vực đề cao các nguyên tắc và tiêu chuẩn hành vi của ASEAN, đồng thời sử dụng có hiệu quả các kênh và diễn đàn trong ASEAN để phổ quát các nguyên tắc đó trong hợp tác nội khối ASEAN và giữa ASEAN với các nước đối tác, ưu tiên áp dụng trên Biển Đông. Theo đó, công tác đối ngoại cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ giữa các ngành và các lĩnh vực để hoàn thành tốt vai trò chủ nhà trong năm ASEAN 2020, từ đó tạo cơ sở để Việt Nam tiếp tục đóng vai trò chủ động, tích cực và có trách nhiệm trong hợp tác ASEAN trong các năm tiếp theo.

2.3. Những hạn chế, bất cập trong vấn đề ngoại giao của nước ta hiện nay

- Đại hội XII đã nêu các hạn chế của công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế gồm: có mặt chưa chủ động và hiệu quả chưa cao. Chưa có giải pháp đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế các tác động tiêu cực trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực. Sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các địa phương còn thiếu chặt chẽ. Công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình còn hạn chế.[3]

- Tuy nhiên, các hạn chế trong công tác đối ngoại nổi lên qua các điểm chính sau.

+ Một là, thời gian qua trong một số vấn đề, ở một số thời điểm nhận thức của chúng ta không theo kịp tình hình. Chúng ta đã không lường hết được những diễn biến phức tạp, nhanh chóng trong chính sách và quan hệ của các nước lớn, nhất là của Mỹ và quan hệ Mỹ - Trung. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu là do các yếu tố khách quan, do tình hình thế giới, khu vực biến động rất phức tạp, khó lường. Nhưng công tác nghiên cứu đánh giá tình hình và dự báo chiến lược vẫn chưa được như mong muốn.

+ Hai là, việc triển khai đường lối và chính sách đối ngoại trong thực tiễn vẫn chưa mạnh mẽ, đồng bộ và toàn diện. Việc tạo đan xen lợi ích, đưa quan hệ đi vào chiều sâu, xây dựng các khuôn khổ quan hệ thực chất và hiệu quả, triển khai các thỏa thuận đã ký kết thực chất, tham gia và tận dụng các thể chế đa phương, nhất là ASEAN để bảo vệ tốt hơn lợi ích của Việt Nam vẫn còn chưa được như mong muốn. Sự tham gia của các bộ ngành và địa phương vào công tác đối ngoại còn chưa đồng đều.

+ Ba là,chưa huy động được toàn bộ hệ thống tham gia công tác đối ngoại, nhất là trong chủ trương hội nhập quốc tế và đối ngoại đa phương, một phần do khác biệt về lợi ích cơ chế thống nhất quản lý đối ngoại chưa tối ưu, các nguồn lực dành cho công tác đối ngoại, cả về vật chất và nhân sự còn hạn hẹp.

+ Bốn là, Do covid nên giao dịch bị hạn chế,gây khó khăn cho việc giao tiếp tiến triển công việc.Do dịch bệnh bùng phát,khó có mà trao đổi công việc cho nhau.Tất cả do những khó khăn do dịch bệnh gây nên.

2.4.Một số giải pháp nhằm phát triển về ngoại giao của nước ta hiện nay

- Một là, tiếp tục đưa vào chiều sâu, tăng cường đan xen lợi ích và tin cậy chính trị với 30 Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện. Trong đó, đặt phát triển vào vị trí trọng tâm của các mối quan hệ và lấy Châu Á-Thái Bình Dương là địa bàn trọng điểm chiến lược; đồng thời thúc đẩy quan hệ với các đối tác tiềm năng ở các khu vực khác.

- Hai là, đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và nâng tầm đối ngoại đa phương; tham gia tích cực hơn vào định hình các thể chế đa phương như ASEAN, Liên hợp quốc, hợp tác Mê Công…; kiên trì thúc đẩy chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế; chủ động đề xuất các sáng kiến thiết thực, phù hợp với khả năng, lợi ích của đất nước và quan tâm của cộng đồng quốc tế.

- Ba là, triển khai mạnh mẽ, đồng bộ và sáng tạo hơn nữa công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, tích cực nắm bắt các cơ hội to lớn về khoa học công nghệ, giáo dục – đào tạo, chuyển đổi số, phát triển xanh... Trên tinh thần “đồng hành”, “phục vụ”, Bộ Ngoại giao, với mạng lưới 94 cơ quan đại diện ở nước ngoài, sẽ luôn là nhà, là địa chỉ thân thiết, tin cậy, là nơi kết nối các cơ hội hợp tác của các địa phương, doanh nghiệp và người dân Việt Nam ở nước ngoài.

- Bốn là, đối ngoại kết hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh, giữa Đối ngoại Đảng, Ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, để tạo thế chân kiềng vững chắc, kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; chủ động phòng ngừa và hóa giải các nguy cơ an ninh thông qua thúc đẩy đối thoại, xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và thượng tôn pháp luật.

- Năm là, đối ngoại góp phần tích cực xây dựng và quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam với 44 danh hiệu và di sản thế giới được UNESCO công nhận, có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người yêu chuộng hòa bình, năng động và có ý chí vươn lên mạnh mẽ; qua đó thu hút đầu tư, du lịch, giao thương, thúc đẩy phát triển bền vững ở địa phương và đất nước nói chung. Đối ngoại cũng sẽ là cầu nối vững chắc để gắn kết cộng đồng 5,3 triệu người Việt Nam ở nước ngoài với quê hương, huy động nguồn lực to lớn của kiều bào đóng góp cho quá trình phát triển và hội nhập của đất nước.

⇒ Để triển khai thành công được những nhiệm vụ chiến lược này, cần tập trung xây dựng một nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, trong đó trọng tâm là phát triển đội ngũ cán bộ đối ngoại có bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm vững chuyên môn, thông thạo kỹ năng, ngày càng chuyên nghiệp, sáng tạo và năng động thích ứng với tình hình.

III.Kết luận

- Hiệp định Giơnever (1954) và Hiệp định Pari (1973) đã để lại những bài học quý báu về mặt trận ngoại giao Việt Nam:

+ Có thể nói, thắng lợi của Hiệp định Paris đã mở ra một bước ngoặt mới cho cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Quá trình đi đến việc ký kết và bản thân Hiệp định đã để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học quý giá. Trong bối cảnh hiện nay, các bài học đó cần được nghiên cứu và vận dụng một cách hợp lý để tiếp tục thúc đẩy cách mạng nước ta phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

+  Hiệp định Giơ-ne-vơ đã đi vào lịch sử 60 năm. Việc nhìn nhận lại những thành công, hạn chế, cho phép ta rút ra những bài học, kinh nghiệm quý báu làm hành trang cho nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Nếu những gì chúng ta chưa đạt được trong Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 thì đến Hội nghị Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam năm 1973, chúng ta đã hoàn thành.

- Đối với dân tộc Việt Nam, Hiệp định Giơnevơ mới chỉ là một mốc đánh dấu sự kết thúc một chặng đường trong quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ để đi tới độc lập tự do. Trong phiên họp cuối cùng tại Hội nghị, Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã hướng về đồng bào của mình nói những lời đầy tâm huyết và mang tính dự báo: "Nhân dân Việt Nam! Đồng bào miền Nam! Thắng lợi thuộc về chúng ta! Độc lập và thống nhất Tổ quốc chúng ta là ở trong tay chúng ta. Những người yêu chuộng hoà bình và công lý trên toàn thế giới đều đồng tình với chúng ta. Đồng bào hãy nhớ lấy lời Hồ Chủ tịch: "Cuộc đấu tranh phải gian khổ, nhưng cuối cùng chúng ta nhất định thắng”.Thực tiễn lịch sử đó để lại nhiều bài học để giải quyết các vấn đề trong quan hệ giữa Việt Nam và thế giới, giữa đất nước và thời đại trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập ngày nay

- Qua đó làm nền tảng để Đảng ta vận dụng và đưa ra các giải pháp để đạt được mục đích trên bàn đàm phán.

- Thiết lập các mối quan hệ hữu nghị, song phương đôi bên cùng có lợi.

- Tạo điều kiện để nước ta có thể phát triển về nhiều mặt kinh tế, văn hoá, y tế,…đưa Việt Nam vươn tầm, hội nhập với bạn bè quốc tế.