Bá hộ ngọc lan là ai

(PL)- Nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển từng nhận xét: Bá hộ Xường, vốn là thông ngôn xuất thân. Sớm xin thôi, ra lãnh thầu cung cấp vật dụng thức ăn cho thị xã. Nhờ khéo tay thêm phùng thời, cự phú không mấy hồi…

Trên đường Hải Thượng Lãn Ông - con đường gắn với phố thuốc Bắc có nhiều ngôi nhà kiểu cổ của Chợ Lớn năm xưa. Trong số đó là một khu nhà trệt đã được xếp vào di tích cần bảo tồn cấp TP vì có nhiều giá trị quý về kiến trúc, đặc biệt là trang trí nội thất cổ vẫn còn được giữ gìn rất tốt bên trong. Ngôi nhà hiện là từ đường của dòng họ Lý tại Sài Gòn, đấy là gia sản còn lại của bá hộ Xường, người từng mệnh danh là giàu thứ ba trong nhóm “Tứ đại phú”.

Bỏ quan trường theo thương trường

Bá hộ Xường tên thật là Lý Tường Quan, còn có tên tự là Phước Trai, sinh năm 1842. Cha của ông là người Hoa, lấy vợ người Việt sinh ra bốn người con, trong đó ông Quan là con thứ ba. Ông sinh ra tại thôn Nhơn Hòa (Gia Định) vào năm 1842. Tương truyền lúc mới sinh có “hồng hoa bao để” (đẻ bọc điều) nên gia đình đặt tên là Tường Quan.

Từ nhỏ, Tường Quan tỏ ra thông minh và hiếu học hơn hết. Ngoài tiếng Việt, Tường Quan đi học cả tiếng Pháp, tiếng Hoa và tỏ ra xuất sắc. Tài năng cầm kỳ thi họa đều giỏi, vì vậy ông được người Hoa bầu là bang trưởng bang Triều Châu khi còn rất trẻ. Sau đó ông được Pháp mời ra làm thông ngôn, kiêm luôn chức vụ bang trưởng cả bảy bang Hoa kiều Chợ Lớn. Việc Pháp thành lập được 25 hộ trưởng trong Chợ Lớn đều có công sức rất lớn của ông.

Nghề thông ngôn không đơn giản chỉ là đi phiên dịch cho Tây, mà còn nắm nhiều thông tin cơ mật, nhất là nếu có chút tài cán, được làm thông ngôn cho quan Tây chức to thì cơ hội tiến thân vào bộ máy chính quyền thực dân rất lớn. Nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển từng kể lại: “Xưa thầy thông ngôn oai lắm: chức làm “interprète” khi đứng bàn ông Chánh (tức thông dịch viên của Tham biện chủ tỉnh) thét ra khói. Khi lại đứng bàn ông Phó, làm tay sai và thông dịch viên cho Phó tham biện, hét ra lửa.

Ngày sau thầy thông ngôn có đủ năm làm việc thì được làm một nhiệm kỳ nữa rồi được bổ làm Huyện, lên Phủ, rồi Đốc phủ sứ, làm Chủ quận, đại diện cho quan Pháp trong một vùng, oai thấu trời, oai hơn ông ghẹ”.

Ấy vậy mà chỉ làm vài năm, đến năm 30 tuổi, Tường Quan xin rời khỏi việc thông ngôn vốn nhiều người mơ ước để đi buôn. Lý giải cho quyết định này, có người cho rằng ông thích tự dọc ngang làm giàu hơn là thích làm chức sắc trong bộ máy cai trị thực dân. Có lẽ với vốn liếng hiểu biết nắm được trong thời gian làm việc với Pháp, Tường Quan thấy ra đi buôn còn phất hơn.

Từ đường bề thế của họ Lý ở đường Hải Thượng Lãn Ông, quận 5. Ảnh: PTG

Vua nhu yếu phẩm lên nhờ đất

Ông Tường Quan phất thật khi đi buôn. Ban đầu ông kinh doanh thực phẩm. Cá thịt là thứ mà hiếm người nào không thường xuyên ăn. Ông thu mua cá ở lục tỉnh, mang lên bán ở Chợ Lớn và Sài Gòn, ngoài cá tươi, ông còn cho chế biến cá khô, mắm để bán ở các vùng xa hơn, thậm chí bán cá khô ra nước ngoài. Tức là ông đã nhắm đến việc xuất nhập khẩu rất sớm. Sự hiểu biết và mối quan hệ với người Pháp giai đoạn làm thông ngôn giúp nhiều cho việc giao thương của ông.

Ông tiếp tục mở rộng kinh doanh, sau khi thu mua thịt cá ở miền Tây bán cho người thị tứ, ông bán ngược lại nhu yếu phẩm cho nông dân. Hệ thống thu mua của ông càng mở rộng chân rết khắp tỉnh thành, việc buôn bán càng phát đạt, thậm chí người ta đồn rằng đến gần một nửa dân miền Tây mua hàng hóa nhu yếu phẩm là có nguồn gốc xuất phát từ đầu mối của ông Tường Quan. Ngày càng giàu có, người ta không còn gọi ông bằng tên thật Tường Quan nữa, mà bằng tên mới: bá hộ Xường. Xường có thể là tên gọi ở nhà của ông, là chữ Tường đọc theo tiếng Hoa.

Gia sản của bá hộ Xường tiếp tục phất lên khi ông đầu tư qua bất động sản. Chiêu thức của ông khá đơn giản: Mua đất giá rẻ, sau đó ra xây nhà, xây biệt thự rồi cho thuê lại. Tận dụng các mối quan hệ với chính quyền Pháp cũng như cách hành xử “biết điều”, bá hộ Xường đã tìm cách mua được rất nhiều khu đất ruộng, đất hoang giá rẻ rồi đầu tư xây địa ốc để “đón gió”. Nhờ vậy, gia sản của ông phất lên cực thịnh giai đoạn này. Người ta nói phần lớn nhà cửa trong vùng Chợ Lớn Mới và vài quận lân cận đều là của bá hộ Xường xây cho thuê. Cần biết rằng chú Hỏa (Hui Bon Hoa) được xem là có rất nhiều nhà thuê ở vùng Sài Gòn - Gia Định, tương truyền đến 30.000 căn nhà, vậy mà cũng chỉ được xếp thứ tư trong “Tứ đại phú”, sau cả bá hộ Xường. Xin lưu ý là trong “Tứ đại phú”, ba vị trí đầu không đổi, chỉ có vị trí thứ tư là được gán cho nhiều người khác, đó là Hội đồng Trạch, chú Hỏa, Trần Hữu Định và cả Bạch Thái Bưởi.

Có một bá hộ Xường làm thơ

Tài cầm kỳ thi họa của bá hộ Xường được ghi lại nhưng không có nhiều bằng chứng, may thay nhà nghiên cứu Võ Văn Sổ gần đây đã tìm được mấy tập sách nhỏ do bá hộ Xường viết, ký tên là Phiên Thành Phước Trai tiên sinh, do nhà in Hòa Nguyên Thạch và Văn Nguyên Đường in, gồm ba bộ:

- Ấu học thi diễn nghĩa.

- Thiên tự văn diễn nghĩa.

- Tam tự kinh diễn nghĩa.

Đây là những tác phẩm nổi tiếng của Trung Quốc, được bá hộ Xường dịch lại bằng thơ lục bát cho dễ đọc, dễ nhớ, ví dụ như:

Nhơn chi sơ - Tánh bổn thiện/ Tánh tương cận - Tập tương viễn/ Cẩu bất giáo - Tánh nải thiêng… (Tam Tự kinh)

Được dịch như sau:

Người sanh lúc hởi còn thơ/ Lòng lành chỉnh thiệt, chẳng chờ chớ dư/ Đến chừng biết nói biết đi/ Vui đâu tời đó, tính gì dở hay/ Lòng vừa giống giống gần tày/ Chơi điều chỉ vẻ lại bày khác xa/ Lạ chi thế thái người ta/ Gần đèn thì rạng, mực hòa thời đen/ Ví dầu chẳng dạy cho quen/ Ắt là biến cải tựa đèn gió đưa…

Tức là cứ mỗi một câu Hán-Việt được dịch ra thành hai câu lục bát, cứ liên tục như vậy cho đến cuối bài.

“Không rõ bá hộ Xường dịch thơ này nhằm mục đích gì? Ông muốn dạy trẻ người Hoa hay người Việt học tiếng Việt dễ hơn qua thơ lục bát?”. Ông Sổ đặt câu hỏi, thắc mắc này đến nay vẫn chưa tìm được lời giải.

Còn rất nhiều tư liệu về bá hộ Xường đã không còn. Gia đình ông sau này phần lớn đã rời khỏi Việt Nam định cư qua nước khác nên họ mang theo hoặc thất lạc khá nhiều khiến chúng ta không được biết nhiều về nhân vật khá đặc biệt này.

Nhiều người con cháu thành đạt

Bá hộ Xường mất năm 1896, khi mới 54 tuổi, đang cười nói bình thường thì lịm đi rồi mất. Tài sản chia cho các con cháu mỗi người một phần. Hậu duệ của ông nhiều người tiếp tục nghiệp kinh doanh như Lý Văn Mạnh mở rộng cả một mật khu ở vùng Đức Hòa, Đức Huệ của Long An ngày nay để trồng mía, xây hàng loạt nhà máy đường, hay xây dựng nên khu chợ vải Soái Kình Lâm… Nhiều người khác chọn con đường làm kỹ sư, bác sĩ, công chức. Nhờ được ăn học đầy đủ, rất nhiều người thành đạt nhưng không một ai có thể tạo dựng nên tên tuổi như bá hộ Xường. Tài sản thay đổi tản mác, sau năm 1975 nhiều con cháu của ông hiến bớt nhà cửa cho Nhà nước rồi ra nước ngoài định cư, thỉnh thoảng về dự giỗ và thăm mộ tổ tiên.

Bá hộ ngọc lan là ai
Hai tượng người đứng hầu trước mộ ông Lý Tường Quan

Khu mộ cụ Lý Tường Quan nằm trong hẻm 79/30 Phú Thọ Hòa (Q.Tân Phú, TP.HCM), trên khu đất khá rộng. Khi chúng tôi đến, khu mộ đã khóa cổng. Chị Bảy, chủ nhà phía đối diện, bảo rằng lâu nay hậu duệ của cụ Lý vẫn gửi chìa khóa nhờ chị giữ, nhưng lần quét dọn cúng kiếng vừa rồi, họ giữ chìa khóa lại… Chúng tôi nhìn ngắm khu mộ qua những song sắt của chiếc cổng, thấy một chiếc bình hoa trên bệ thờ bị đổ nhưng không cách nào để sửa lại được, đành lòn máy ảnh vào trong những song sắt.

Mộ cụ Lý Tường Quan mang nhiều nét độc đáo của kiến trúc cổ Trung Hoa: có nhà mồ (nhà mái che), mặt tiền nhà mồ có cửa vòm chính giữa, trên vòm cửa có chữ Lý (Hán tự, chỉ họ Lý) hai bên trang trí dây leo hoa lá, trái quả... Hai bên cửa vào có cặp liễn khắc chữ Hán: Lục thủy nhiểu bình dương, thanh long uy chánh huyệt/Hòa phong thông bá đạo, bạch hổ hộ minh đường (tạm dịch: “Nước biếc uốn quanh đất phẳng, uy lực rồng xanh ứng vào chánh huyệt. Gió lành thông trăm nẻo, khí thiêng cọp trắng hộ trì minh đường”). Điểm độc đáo là trước mộ có 2 tượng người bằng đá đứng hầu. Bên phải là tượng người đàn ông có vóc dáng khá lực lưỡng, mặc áo dài, đầu đội nón, chân đi giày, hai tay nâng một chiếc hộp. Đối diện là tượng người đàn bà có nét mặt nhu mì, đầu trần tóc búi, mặc áo dài, chân đi hài, hai tay nâng tách nước... Nhìn chung, 2 pho tượng được thể hiện rất sống động, nét khắc chạm các hoa văn ở viền áo, gấu áo và mũi giày công phu...

Nhờ chồng chị Bảy cho số điện thoại của anh Lý Thanh Liêm (hậu duệ đời thứ 5 của cụ Lý), chúng tôi đã liên lạc với anh. Anh cho biết ngay cả những người trong dòng họ hiện nay cũng không xác định được thân thế của 2 nhân vật được tạc tượng hầu hai bên mộ cụ Lý, chỉ đoán họ là những gia nhân có thật của cụ thuở sinh thời. Theo tư liệu anh Liêm cung cấp và theo chúng tôi quan sát thì giữa 2 tượng có bệ đá đặt lư hương rồi đến bia đá hình chữ nhật đặt trước mộ. Mặt bia có 3 hàng chữ Hán (dịch nghĩa: “Phần mộ của ông hiển khảo Lý Tường Quan, nhận chức Chánh đại phu vào đời thứ 26 nhà Thanh. Ngày lành, tháng tốt, năm Bính Thân: các con trai là Thanh Huy, Thanh Vân, Thanh Châu, Thanh Đẩu, Thanh Sĩ, Thanh Lan và các cháu là Văn Mạnh, Văn Quý, Văn Tài, Văn Tú, Văn Nguyên cùng lập mộ”).

Sau bia là mộ, với bốn mặt thành mộ bằng đá, phía trên mộ phủ cát vàng. Mộ dài 3,64 m, rộng 2,45 m, cao 0,77 m. Hai vách thành phải trái khắc hình các con thú: dê, khỉ, ngựa, hươu… Riêng vách thành sau khắc hình lân mã. Bốn góc mộ có các trụ vuông được chạm trổ rất tinh xảo. Mặt ngoài các cột có phù điêu hình người, chim cảnh. Trên đầu mỗi trụ cột có chạm hình các đĩa quả đặc sản Nam bộ như xoài, mãng cầu, thơm… Sau mộ, có bia đá lớn khắc hơn 300 chữ Hán, nội dung là tiểu sử và sự nghiệp của cụ Lý Tường Quan. Trần nhà mộ hình vòm, bốn góc trang trí hoa văn dây hoa cúc đối xứng. Mái nhà mộ (4 mái) lợp ngói, các bờ diềm cạnh mái được đắp hoa văn rồng mây, bốn góc mái uốn cong có tượng chim đại bàng canh giữ mộ phần.

Mộ cụ bà Nguyễn Thị Lâu nằm bên trái nhà mồ, dù xây lộ thiên nhưng cũng có tường bao mộ, sân mộ, bia trước, nấm mộ và bia sau mộ. So với ngôi mộ bề thế của người chồng thì mộ của phu nhân có phần khiêm tốn hơn. Tuy nhiên, từ cấu trúc tạo hình, ngôi mộ này cũng có những giá trị cao về nghệ thuật chạm khắc đá mộ chí của vùng đất Sài Gòn - Gia Định đầu thế kỷ 20.

Khéo tay thêm phụng thời, cự phú mấy hồi

Theo đoàn người Minh hương từ Trung Quốc sang VN lập nghiệp, khoảng năm 1820, ông Lý Sáng Ái (1781 -1855) quê ở huyện Phiên Ngung (Quảng Đông, Trung Quốc) vượt biển đến vùng đất Cần Giờ định cư, ông lấy người vợ Việt là bà Trần Thị Thơ. Ông Lý Tường Quan (1842 - 1896) là con thứ ba của ông Lý Sáng Ái, vốn thông minh, chăm chỉ học hành, thông thạo cả tiếng Hán lẫn tiếng Pháp. Khi trưởng thành, ông được viên quan Pháp tên là Gandot mời ra làm thông dịch viên, rồi giao cho ông chức Bang trưởng cai quản 7 bang người Hoa vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Một thời gian sau, ông quyết định xin nghỉ chuyển qua làm thầu xây dựng các công trình: nhà phố, cầu cống, chợ… trở thành một tay cự phú vào nửa cuối thế kỷ 19, qua câu truyền tụng của dân gian: “Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định”.

Nói về sự thành đạt của cụ Lý, cụ Vương Hồng Sển viết: “thông ngôn xuất thần, sớm xin thôi, ra lãnh thầu cung cấp vật tư, thức ăn cho thị xã, nhờ khéo tay thêm phụng thời, cự phú mấy hồi…”.

Sinh thời, ông Lý Tường Quan và bà Nguyễn Thị Lâu sống trong ngôi nhà lớn cột gỗ, ba gian hai chái, mái lợp ngói. Ngôi nhà cổ có niên đại hơn 130 năm hiện vẫn còn tại số 292 Hải Thượng Lãn Ông, Q.5, TP.HCM. Con cháu cụ Lý hiện nay vẫn còn đông. Đa số sống rải rác tại TP.HCM, một số khác hiện sống ở nước ngoài (Mỹ, Canada…). Mỗi năm đến ngày cúng giỗ cụ Lý, con cháu đều tề tựu đông đủ bên lăng mộ cụ, thắp nhang bày cỗ tỏ lòng tri ân…

Tin liên quan