Xét nghiệm virus dại ở đâu

Bệnh dại là một bệnh virus nguy hiểm ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương. Bệnh lây qua nước bọt của động vật bị nhiễm, thường là do bị cắn. Triệu chứng thường xuất hiện trong vòng 1 – 3 tháng sau khi nhiễm virus. Khi đã lên cơn dại bệnh nhân hầu như chắc chắn sẽ tử vong.

Khi bị chó mèo cắn ta có thể đi tiêm phòng ngay lặp tức sẽ an toàn cho sức khỏe nhưng cũng không ít trường hợp chúng ta còn phân vân vậy chúng ta sẽ làm gì trong những trường hợp này? Cần làm gì để phát hiện bệnh dại?

Theo dõi chó

Theo dõi chó sau khi cắn là quan trọng nhất để phát hiện bệnh dại

Chó vẫn sống hay bề ngoài vẫn khoẻ mạnh

Cần phải tiến hành việc theo dõi và không được giết chó trong bất kỳ trường hợp nào. Nếu chó đang trong thời gian ủ bệnh thì các triệu chứng sẽ xuất hiện thường là khoảng 2 ngày sau nhưng có thể lâu hơn. Có thể tiến hành xét nghiệm mô não của con vật để xem nó có bị dại không. Khi xuất hiện những biểu hiện đầu tiên của bệnh, chúng ta sẽ bước sang trường hợp thứ hai.

Chó bị bệnh dại

Dựa vào những triệu chứng lâm sàng để kết luận. Đối với thể bại liệt, con vật thường bị bại liệt phần thân sau hay bại hàm. Còn đối với thể dại điên cuồng, con vật có những cơn hung dữ, chảy nhiều nước bọt và tiếng sủa khan. Con vật sẽ chết 2 – 3 ngày sau đó. Khi đó chúng ta sẽ gặp trường hợp thứ 3.

Chó đã chết

Lấy mẫu là những phần ở não để tiến hành xét nghiệm.
Hiện nay có 3 phương pháp thông dụng nhất để chẩn đoán xét nghiệm bệnh dại, đó là phương pháp miễn dịch huỳnh quang, phương pháp tiêm truyền trên động vật thí nghiệm và phương pháp giải phẫu bệnh.

 Phương pháp xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang tìm virus dại

Miễn dịch huỳnh quang giúp tìm virus Dại

Phương pháp này gồm có các bước sau: đánh dấu kháng thể bằng một chất nhuộm màu là fluorochrome, làm cho kháng thể phản ứng với kháng nguyên đặc hiệu (nếu hiện diện) và sau đó quan sát dưới kính hiển vi huỳnh quang. Một chất được gọi là có tính huỳnh quang, nếu sau khi hấp thu năng lượng ánh sáng ở một độ dài sóng nào đó, sẽ phát ra ánh sáng ở một độ dài sóng khác.

Trong trường hợp của bệnh dại, khi kháng nguyên kết hợp với kháng thể được đánh dấu bằng isothiocynat fluoroxin (là một chất nhuộm màu được sử dụng nhiều nhất) sẽ thấy xuất hiện những tiểu phần phát sáng màu xanh của quả táo hoặc vàng xanh lá cây nhạt trên một nền đen. Nền đen này có thể chứa hoặc không chứa vật có tính huỳnh quang không đặc trưng. Tính chất và đậm độ của màu sắc có thể thay đổi tuỳ theo việc sử dụng các loại kính lọc màu khác nhau.

Hiện nay, phương pháp miễn dịch huỳnh quang là một phương pháp cho kết quả chẩn đoán xét nghiệm nhanh nhất (có thể chỉ vài giờ sau khi nhận mẫu) và chính xác nhất (98 – 99,4%) so với các phương pháp khác. Do đó phương pháp này cần được sử dụng trong tất cả các phòng xét nghiệm chuyên về bệnh dại.

Phương pháp tiêm truyền qua động vật thí nghiệm

Ngày nay người ta thường sử dụng chuột bạch để chẩn đoán xét nghiệm bệnh dại. Một số phòng xét nghiệm sử dụng chuột con mới đẻ, còn một số phòng thí nghiệm khác thì dùng chuột lẻ bầy. Bệnh phẩm là não của con vật nghi dại được lấy ở các phần sau sừng Ammon, hai bên bán cầu não và tiểu não. Bệnh phẩm phải được lấy từ những con vật nghi dại vừa mới chết hoặc chế chưa quá 24 giờ và phải được ướp đá kỹ lưỡng. Đối với con vật lớn có thể cắt lấy đầu còn với con vật nhỏ phải để nguyên con và trong cả 2 trường hợp phải giữ cho hộp sọ còn nguyên vẹn.

Não sau khi lấy ra khỏi hộp sọ phải cho ngay vào dung dịch Glycerin để bảo quản. Tại phòng xét nghiệm, não phải được lấy ra để rửa sạch, đem nghiền nát và xử lý kháng sinh để diệt vi trùng tạo nhiễm. Sau đó tiêm huyền dịch đã pha vào não của chuột bạch con với liều lượng là 0,02 ml cho mỗi con và tiến hành theo dõi trong một thời gian tối thiểu là 4 tuần.

Nếu trong bệnh phẩm có chứa virus dại thì sau một thời gian nung bệnh 10 – 15 ngày, chuột sẽ có những biểu hiện mắc bệnh. Những dấu hiệu thường thấy là bỏ ăn, xù lông, phản ứng có phần chậm chạp hoặc  hốt hoảng thái quá  khi khua động bocal, khả năng vận động lanh lợi của chuột đã mất thăng bằng và ngã xuống. Biểu hiện này xảy ra trong vòng 1 – 2 ngày. Sau đó chuột sẽ bị bại liệt, bắt đầu là 2 chân sau, kế đến lan dần  ra toàn thân. Chuột nằm nghiêng, co giật mạnh, co rúm thân mình lại khi dùng panh chạm vào thân hay gõ vào thành bocal. Ban đầu chuột còn thở mạnh, sau đó thoi thóp và cuối cùng chuột sẽ chết. Giai đoạn từ khi bị bại liệt đến lúc chết thường trong vòng 1 – 2 ngày. Tuy nhiên biểu hiện bại liệt có thể xuất hiện trong một thời gian rất ngắn hay không xuất hiện tức là chuột sẽ bị chết đột ngột.

Nếu trong 4 tuần theo dõi, chuột tiêm không có biểu hiện nào bất thường thì sẽ kết luận âm tính, bệnh phẩm không chứa virus dại.

Mức độ chính xác của phương pháp này khá cao: 98,3 – 98,79%, tương đương với phương pháp miễn dịch huỳnh quang. Theo các chuyên gia về bệnh dại của Tổ chức Y tế Thế giới, ở các phòng xét nghiệm có trình độ chuyên môn cao, sự tương đồng về các kết quả của phương pháp này gần như đạt đến 100%. Với phương pháp tiêm truyền trên động vật thí nghiệm, còn giúp phát hiện đến 20% các trường hợp sai sót của phương pháp giải phẫu bệnh thể Negri.

Phương pháp giải phẫu bệnh

Giải phẫu bệnh tìm thể Negri trong não động vật nghi ngờ bị bệnh

Dùng để phát hiện thể Negri – là bệnh tích đặc trưng của bệnh dại, nhờ một chất nhuộm màu thích hợp. Thuốc nhuộm của Sellers, Giemsa được sử dụng rộng rãi và tỏ ra khá tốt. Dù có sử dụng loại thuốc nhuộm nào, cũng phải chú ý tránh để không nhầm lẫn thể Negri với các thể ẩn nhập của những bệnh do virus khác hay với những vật thể khác. Sự phân biệt này rất tế nhị nên cần đến một người làm công tác xét nghiệm có trình độ chuyên môn cao.

Với phương pháp này, có thể cho kết quả chẩn đoán dương tính trong vòng vài ngày. Trong trường hợp kiểm tra thể Negri âm tính, cần tiếp tục tiến hành các phương pháp chẩn đoán khác như phương pháp miễn dịch huỳnh quang và phương pháp tiêm truyền trên động vật thí nghiệm. Ngày nay, có nhiều kỹ thuật giải phẫu học chẩn đoán nhanh dựa vào việc sử dụng những coupe đông lạnh, nhưng việc sử dụng phương pháp này ngày càng ít đi vì hiện tại phương pháp chẩn đoán nhanh chính là kỹ thuật huỳnh quang. Tuy vậy, phương pháp này vẫn còn có ích nếu mô não bị mềm và nếu muốn giữ lâu để nghiên cứu.

Mức độ chính xác của phương pháp này vào khoảng 65,8 – 75,4%.

Điều trị bệnh dại

Điều trị bệnh sau khi tiếp xúc với động vật nghi dại gồm tiêm 1 liều huyết thanh kháng dại và 5 liều vaccin phòng dại trong thời gian 28 ngày. Huyết thanh kháng dại và liều vaccin đầu tiên cần được tiêm càng sớm càng tốt sau khi có tiếp xúc. Huyết thanh kháng dại sẽ được tiêm vào vùng quanh vết cắn và vaccin được tiêm vào bắp tay.

Tìm hiểu thêm: Đặc điểm và triệu chứng của bệnh Dại

Benh.vn (Theo ykhoa.net)

Bệnh dại là một loại viêm não -màng não, thường gây tử vong. Tác nhân gây bệnh là virus dại thuộc giống Lyssavirus, nằm trong họ Rhabdoviridae.

CÁC TÍNH CHẤT CỦA VIRUS   

Virus dại có hình gậy giống như hình viên đạn, dài 130-240nm và đường kính 70-80nm. Nucleocapsid đối xứng hình xoắn ốc, chứa ARN 1 sợi, có một vỏ ngoài mang các gai ngưng kết hồng cầu, bản chất là glycoprotein.

Virus dại nhân lên được trong nhiều hệ thống tế bào người và động vật (tế bào tiên phát, các tế bào lưỡng bội...) Virus nhân lên ở trong bào tương,  các nucleocapsid tập trung lại thành từng đám ở lưới nội bào tạo thành các hạt vùi, còn gọi là tiểu thể Negri.

Virus dại kém bền vững, nó nhạy cảm với ete, ở 560C / 3 phút bị khử hoạt tính.

Virus dại chỉ có một typ huyết thanh.

Năm 1882,  Louis Pasteur đã tiêm truyền vào não thỏ chủng virus dại phân lập được từ não động vật bị dại và nhận thấy tính chất gây bệnh của nó yếu đi khi gây lây cho chó bằng đường dưới da, chủng virus này được gọi là chủng virus cố định, khác với các chủng virus dại đường phố mới phân lập được từ chó bị dại.

Chủng virus dại cố định            

Chủng virus dại đường phố

Thời kỳ ủ bệnh

Ngắn, cố định (7 ngày)

Thay đổi, ngắn hoặc dài tùy theo vị trí vết cắn và độc lực của virus

Khả năng gây bệnh            

Yếu

Mạnh

Tạo tiểu thể Negri              

Không  

Có (80-90%)

Dùng để sản xuất vaccine   

Được 

Không

KHẢ NĂNG GÂY BỆNH

Sinh bệnh học

Vius thường xuyên có mặt trong hệ thống thần kinh trung ương và hệ thống thần kinh ngoại biên của động vật bị dại. Các tế bào thần kinh ở hạch giao cảm bị bong ra làm cho tuyến nước bọt bị nhiễm virus.

Virus dại xâm nhập vào cơ thể thường là qua các tổn thương ở da(vết cắn, vết cào xước, vết liếm...). Virus dại không truyền qua được da lành, nhưng niêm mạc nguyên vẹn vẫn có thể để cho virus xâm nhập được.

Virus nhân lên tại chổ ở vùng xâm nhiễm (cơ, tổ chức liên kết và nhất là các tế bào Schwann  của các dây thần kinh cảm giác) và tiến dọc theo dây thần kinh hướng tâm tới tủy sống rồi lên hệ thống thần kinh trung ương, nhân lên và phá hủy các tế bào thần kinh của vỏ não, vỏ tiểu não, tủy sống. Cuối cùng virus theo đường dây thần kinh ly tâm đi tới tuyến nước bọt. Sự thải virus ra ngoài theo tuyến nước bọt bắt đầu từ 1 đến 2 ngày trước các triệu chứng đầu tiên và kéo dài một vài ngày sau ở động vật. Các mô khác có thể bị nhiễm virus như ở thận, lách, phổi.

Thời kỳ ủ bệnh liên hệ mật thiết với vị trí vết cắn, vết cắn càng gần thần kinh trung ương thì thời kỳ ủ bệnh càng ngắn, do đó người ta còn có ít thời gian để bảo vệ người bị cắn trước khi virus xâm nhập tới hệ thần kinh. Bị nhiều vết cắn, vết cắn sâu, vết cắn vào vùng có nhiều thần kinh thì bệnh rất nặng.

Dịch tễ học

Ổ chứa: là các động vật máu nóng gồm các động vật hoang dại như cáo, chó rừng, chó sói, chồn... lưu hành bệnh dại bệnh tự nhiên, hoặc các động vật nuôi trong nhà như chó, mèo...Ngoài ra còn thấy virus dại ở tuyến nước bọt của một vài loài dơi như loại dơi hút máu (dơi quỷ) và dơi ăn côn trùng. Dơi thường mang bệnh dại thể ẩn và có thể đào thải virus một thời gian dài. Ở động vật bị dại, virus có mặt trong hệ thống thần kinh, nước bọt, nước tiểu, hạch bạch huyết, sữa, và tồn tại rất ngắn trong môi trường bên ngoài. Cho nên động vật bị bệnh dại là ổ chứa duy nhất của virus và việc nhiễm virus gián tiếp rất hiếm.

Đường lây: Bệnh dại truyền từ động vật này sang động vật khác và sang người qua vết cắn, cào, xước trên da ...có dính nước bọt bị nhiễm virus dại.

Đối tượng cảm nhiễm: người và động vật máu nóng dễ mắc bệnh. Ở nước ta, bệnh dại lưu hành ở hầu hết các địa phương do nuôi chó nhiều nên số người bị chó dại cắn nhiều, số người chết vì bệnh dại cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể.

Biểu hiện lâm sàng

Bệnh dại ở người

Bệnh dại là một bệnh viêm não - màng não, thời kỳ ủ bệnh thay đổi tùy theo vị trí vết cắn và độc lực của virus, có thể từ 1-3 tháng. Thời kỳ khởi phát thường có một hội chứng nhiễm trùng nhẹ, cảm giác bất thường ở chổ cắn, tâm thần không ổn định. Thời kỳ toàn phát có 3 thể lâm sàng:

Thể co giật: hay gặp nhất, dấu hiệu đặc trưng nhất là sợ nước, sợ gió. Bệnh nhân thường chết đột ngột do co thắt các cơ hô hấp.

Thể liệt: khởi đầu là liệt nhẹ một bên hoặc 2 bên hoặc liệt toàn thân (hội chứng Landry), liệt các cơ hô hấp làm bệnh nhân chết.

Thể mất trí: tiến triển thường nguy hiểm.

Khi bệnh dại đã lên cơn thì chết, điều trị chỉ có tác dụng phòng ngừa.

Bệnh dại ở súc vật

Triệu chứng là con vật không bình thường, bỏ ăn hoặc ăn những thứ không ăn được như áo rách, chổi...Tiếng chó sủa biến thành tiếng rú vì các dây thanh âm bị liệt, nước dãi rơi, con vật chạy rong khắp nơi, cắn xé nhiều, uống nước nhiều. Về sau xuất hiện rối loạn hô hấp, chó gầy và liệt rồi chết vào khoảng ngày thứ  5-7.

CHẨN ĐOÁN PHÒNG THÍ NGHIỆM

Về chẩn đoán vi sinh vật bệnh dại đối với người, người ta ít làm bởi vì việc lấy bệnh phẩm rất khó khan, mặc khác nó cuing không có ý nghĩa trng điều trị. Chẩn đoán thường được tiến hành chủ yếu ở các động vật ngi bị dại cắn người cắn người.

Xét nghiệm mô bệnh học

Bệnh phẩm là não của động vật nghi bị dại. Tìm các hạt vùi trong bào tương của tế bào thần kinh, gọi là tiểu thể Negri, nhưng có 10-15% không tìm thấy tiểu thể Negri.

Tìm kháng nguyên virus

Phương pháp miễn dịch huỳnh quang trực tiếp cho phép tìm ra các kháng nguyên virus dại trong vài giờ (các hạt vùi bắt màu huỳnh quang trong bào tương) ở trong các tế bào thần kinh, nhất là ở sừng Ammon hoặc tiểu não. Đây là phương pháp tốt nhất.

Phân lập virus

Phân lập virus bằng cách tiêm truyền chất nghiền não hoặc nước bọt vào não chuột nhắt con, sau đó phát hiện các kháng nguyên virus dại trong các tế bào não chuột nhắt con bị chết bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang. Người ta còn thường phân lập virus trong các nuôi cấy tế bào.

Chẩn đoán huyết thanh không có giá trị trong chẩn đoán.

ĐIỀU TRỊ DỰ PHÒNG

Xử trí vết cắn

Đối với các vết cắn, đã có nhiều phương pháp xử lý khác nhau với mục đích là làm sạch virus hay làm mất hoạt lực của virus.

Xử trí vết cắn càng nhanh càng tốt, có thể xử trí vết cắn như sau:

Rửa bằng dung dịch xà phòng 20% hoặc bằng dung dịch Benzalkonium clorua 20%

Để hở vết thương

Gây tê tại chỗ bằng Procain có tác dụng làm chậm quá trình tiến triển của virus

Khi vết cắn ở chổ nguy hiểm, tiêm huyết thanh chống dạị dưới da phía trên vết cắn.

Điều trị dự phòng bằng vaccine

Việc xử dụng vaccine chống dại với mục đích điều trị dự phòng là có thể được và có hiệu quả nếu điều trị đúng sau khi nhiễm bệnh.

Các vaccine thế hệ thứ nhất như vaccine Fermi simple được sản xuất bằng cách nuôi cấy virus trong các mô thần kinh của động vật lớn (tủy hoặc não) gây ra các viêm não dị ứng trầm trọng, có thể dẫn tới tử vong. Ngày nay, người ta xử dụng các vaccine làm từ não chuột nhắt mới đẻ như vaccine Fuenzalida không chứa thành phần dị ứng nên loại vaccine này không gây ra các biến chứng nguy hiểm như các vaccine thế hệ đầu tiên. Người ta cũng sản xuất vaccine dại trên các nuôi cấy tế bào lưỡng bội của người nhưng số lượng vaccine ít chỉ dùng cho những đối tượng cần thiết với mục đích dự phòng. Hiện nay hai loại vaccine phòng dại được sử dụng tại Việt Nam là Fuenzalida (do Việt Nam sản xuất) và Verorab (do Pháp sản xuất).

Khi đứng trước một người bị chó cắn thì nên áp dụng một số biện pháp sau:

Nếu chó cắn xong lên cơn dại hoặc chết, hoặc mất tích thì tiêm kháng huyết thanh dại sau đó điều trị bằng vaccine ngay.

Nếu chó cắn xong, chó vẫn sống bình thường, nhưng vết cắn gần thần kinh trung ương hoặc sâu và nhiều chỗ thì phải tiêm huyết thanh rồi thì tiêm vaccine ngay, và theo dõi chó, nếu sau 10 ngày chó vẫn bình thường thì ngừng tiêm.

Nếu chó cắn xong vẫn bình thường, vết cắn xa thần kinh trung ương thì tiêm huyết thanh kháng dại và theo dõi chó, nếu có dấu hiệu dại ở chó thì phải tiêm vaccine ngay.

Trường hợp chó con cắn phải tiêm ngay và tiêm đủ liều vì các dấu hiệu dại ở chó con không rõ ràng như chó lớn.

PHÒNG BỆNH

Ở người

Đối với những người vì nghề nghiệp mà họ bị bắt buộc gần các động vật có thể bất ngờ lên cơn dại (như thú y, thợ lột da thú, gác rừng, nhân viên phòng thí nghiệm, chẩn đóan và nghiên cứu) người ta sử dụng một loại vaccine chống dại với mục đích dự phòng.

Ở động vật

Gồm nhiều biện pháp, cần phải được thực hiện đồng bộ và nghiêm túc như tiêm vaccine bắt buộc cho chó, mèo ở vùng có bệnh dại lưu hành, tiêu diệt các con chó bị dại, bắt giữ chó chạy rong...

Video liên quan

Chủ đề