Tóm tắt truyện công viên kỷ jura

Tóm tắt truyện công viên kỷ jura


Công viên kỷ Jura chi sinh vật mạnh nhất
【 Phong vân 】 quyển mao


595


1 Thích


2 Tủ


3 Theo dõi

Tóm tắt truyện

【 Phi lô tiểu thuyết Internet độc nhất vô nhị ký kết tiểu thuyết: Công viên kỷ Jura chi sinh vật mạnh nhất 】 tỉnh lại lần nữa, giang phong vậy mà trùng sinh trở thành một cái còn không có ngón tay to tiểu xà, đồng thời thu được một cái tên là sinh vật mạnh nhất hệ thống.

Đi săn có thể thu được điểm kinh nghiệm? Điểm kinh nghiệm đầy đủ, có thể thăng cấp thành Titan cự mãng, thăng cấp làm giao long, thậm chí là thăng cấp thành viễn cổ thần long? Tại sinh vật mạnh nhất dưới sự giúp đỡ của hệ thống, giang phong trở thành Công viên kỷ Jura bên trong kinh khủng nhất kẻ săn mồi, đi săn chu...

Thông tin

Hán việt:     Chu la kỷ công viên chi tối cường sinh vật

Tác giả:      【 Phong vân 】 quyển mao

Thể loại:     Đồng nhân

Nguồn truyện: faloo

Loại truyện:  nhúng tự động

Nhập thời:    2020-08-22 14:15:06

Thao tác


Đọc ngay


Thích


Đánh dấu


Theo dõi


Preview


Lấp hố


Dán nhãn


Báo cáo


Đẩy sách

Người nhúng

Không rõ danh tính người nhúng

Mục lục Cập nhật Xuống


Đang tải danh sách chương...

Mở rộng

Chương mới: 2022-03-26 00:29:33

Cập nhật chương mới

Tóm tắt truyện công viên kỷ jura

Beverly Cooper This book blows the movie "out dah window!" It is definitely written for a more intelligent audience, especially Crichton's explanation of the "Chaos …moreThis book blows the movie "out dah window!" It is definitely written for a more intelligent audience, especially Crichton's explanation of the "Chaos Theory" and it's use in creating the, er, "dinosaurs..."
The book depicts the characters completely different than the movie does, in terms of their importance, personalities, relationships to the overall story and each other,etc. Actually, once you begin reading it, you may not be able to put it down literally - I know I couldn't... (less)

Công Viên Khủng Long Kỷ Jura – Michael Crichton

Link tải: PDF MOBI EPUB  AZW3 

Cuốn sách Công Viên Khủng Long Kỷ Jura là một trong những cuốn sách bán chạy nhất thế giới và là nguồn cảm hứng cho đạo diễn nổi tiếng thế giới Steven Spielberg khởi tạo bộ phim cùng tên.

Trong Công viên kỷ Jura, tại một hòn đảo giả tưởng có tên Isla Nublar, gần Costa Rica, một tỉ phú cho xây dựng nên một công viên khủng long giải trí. Khi xảy ra một sự kiện bất ngờ, gây ra cái chết của một nhân viên, vị tỉ phú kia, John Hammond, cho mời ba chuyên gia đến thanh tra công viên để giúp các nhà đầu tư không cảm thấy lo sợ.

Các chuyên gia này bao gồm nhà cổ sinh vật học Alan Grant, nhà cổ thực vật học Ellie Sattler, và nhà toán học Ian Malcolm. Tất cả bọn họ đều hết sức bất ngờ khi được tận mắt chứng kiến khủng long thật, còn sống, được tạo ra từ ADN hóa thạch của khủng long gốc.

Tuy nhiên, khi một nhân viên bất mãn có tên Dennis Nedry tắt nguồn điện của công viên để tìm cách ăn trộm phôi khủng long đi bán, lũ khủng long sổng chuồng, và khu công viên thanh bình bị biến thành một miền đất đầy rẫy chết chóc. Câu hỏi nhiều người đặt ra nhất hẳn sẽ là: bản truyện khác gì bản phim? Nó hay hơn hay dở hơn? Câu trả lời: khác khá nhiều, và hay hơn hẳn.

Bộ phim để lại ấn tượng cho người xem ở cái sự hùng vĩ của cảnh vật và của các con khủng long, nhưng cuốn tiểu thuyết thì lại mới chứa đựng trái tim thật sự của Công viên kỷ Jura: nó kích thích trí tưởng tượng của người đọc, nó mang lại cái cảm giác kiệt quệ, bất an, cảm giác pha trộn giữa trầm trồ ngưỡng mộ và kinh hoàng lạnh sống lưng giữa một khu rừng rậm nhiệt đới mù sương, sống động.

Bạn có thể giúp đỡ chúng tôi cập nhật tóm tắt hoặc viết bài review Công Viên Khủng Long Kỷ Jura – Michael Crichton tại đây

Mua Sách Giấy (Tiki) Mua Sách Giấy (Fahasa) English Version Ebook

 1,918 Total Views,  3 Views Today

For faster navigation, this Iframe is preloading the Wikiwand page for Thế giới bị mất: Công viên kỷ Jura.

{{::readMoreArticle.title}}
{{bottomLinkPreText}} {{bottomLinkText}}

Thanks for reporting this video!

An extension you use may be preventing Wikiwand articles from loading properly.

If you're using HTTPS Everywhere or you're unable to access any article on Wikiwand, please consider switching to HTTPS (https://www.wikiwand.com).

An extension you use may be preventing Wikiwand articles from loading properly.

If you are using an Ad-Blocker, it might have mistakenly blocked our content. You will need to temporarily disable your Ad-blocker to view this page.

This article was just edited, click to reload

This article has been deleted on Wikipedia (Why?)

Back to homepage

Please click Add in the dialog above

Please click Allow in the top-left corner,
then click Install Now in the dialog

Please click Open in the download dialog,
then click Install

Please click the "Downloads" icon in the Safari toolbar, open the first download in the list,
then click Install

{{::$root.activation.text}}

Install on Chrome Install on Firefox

Tóm tắt truyện công viên kỷ jura

Công viên kỷ Jura

Áp phích chiếu rạp phiên bản 3D
của phim tại Việt Nam

Đạo diễnSteven SpielbergSản xuất

  • Kathleen Kennedy
  • Gerald R. Molen

Kịch bản

  • Michael Crichton
  • David Koepp

Dựa trênJurassic Park
của Michael CrichtonDiễn viên

  • Sam Neill
  • Laura Dern
  • Jeff Goldblum
  • Richard Attenborough
  • Bob Peck
  • Martin Ferrero
  • B. D. Wong
  • Samuel L. Jackson
  • Wayne Knight
  • Joseph Mazzello
  • Ariana Richards

Âm nhạcJohn WilliamsQuay phimDean CundeyDựng phimMichael KahnHãng sản xuất

Amblin Entertainment

Phát hànhUniversal Pictures

Công chiếu

  • 9 tháng 6, 1993 (1993-06-09) (Rạp Uptown)
  • 11 tháng 6, 1993 (1993-06-11) (Mỹ)
  • 7 tháng 6, 2013 (2013-06-07) (Việt Nam)

Độ dài

127 phút[1]Quốc giaMỹNgôn ngữTiếng AnhKinh phí63 triệu USD[2]Doanh thu1,029 tỉ USD[2]
← Phim trước
Phim sau →
Thế giới bị mất: Công viên kỷ Jura

Trước khi tiểu thuyết của nhà văn Crichton được xuất bản, bốn hãng phim đã trả giá cho bản quyền chuyển thể điện ảnh. Với sự giúp đỡ của Universal Studios, Spielberg có được bản quyền phim với giá 1,5 triệu USD trước khi quyển sách được ra mắt vào năm 1990; Crichton cũng được thuê với mức lương 500.000 USD để chuyển thể tiểu thuyết lên màn ảnh rộng. Koepp đảm nhiệm phần kịch bản cuối cùng, và phiên bản này đã tỉnh lược nhiều chi tiết bạo lực trong nguyên tác, đồng thời thay đổi nhiều yếu tố về phần nhân vật. Phim được bấm máy tại California và Hawaii vào khoảng từ tháng 8 tới tháng 11 năm 1992, với phần hậu kỳ được kéo dài tới tháng 5 năm 1993, dưới sự giám sát của Spielberg tại Ba Lan khi ông đang trong quá trình thực hiện Bản danh sách của Schindler.

Các loài khủng long được hãng Industrial Light & Magic tạo dựng bằng công nghệ CGI và đồng thời với mô hình khủng long kích thước thực do Stan Winston và đội của anh chuẩn bị. Để khắc họa phần thiết kế âm thanh trong phim, bao gồm sự pha trộn giữa âm thanh của các loài động vật cũng như tiếng gầm của khủng long, Spielberg đã đầu tư vào DTS, một công ty chuyên về các định dạng âm thanh vòm kỹ thuật số. Cùng với chiến dịch quảng bá 65 triệu USD, trong đó bao gồm hợp đồng với 100 công ty khác nhau, Công viên kỷ Jura đã thu về hơn 914 triệu USD toàn cầu trong lần chiếu chính thức, trở thành phim điện ảnh có doanh thu cao nhất năm 1993 và phim điện ảnh có doanh thu cao nhất mọi thời đại tại thời điểm đó, và nắm giữ danh hiệu này trong bốn năm, cho tới khi Titanic (1997) được công chiếu. Công viên kỷ Jura nhận được nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn, đề cao phần kỹ xảo hình ảnh, phần nhạc nền của John Williams và chỉ đạo sản xuất của Spielberg. Sau khi được chiếu lại dưới định dạng 3D vào năm 2013 để kỷ niệm 20 ngày ra mắt, Công viên kỷ Jura trở thành phim điện ảnh thứ 17 trong lịch sử cán mốc 1 tỉ USD doanh thu phòng vé.

Công viên kỷ Jura đã giành chiến thắng tổng cộng hơn 20 giải thưởng, bao gồm ba giải Oscar cho các hạng mục kỹ thuật như kỹ xảo hình ảnh và thiết kế âm thanh. Phim cũng được nhớ đến như một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của công nghệ CGI và kỹ xảo mô hình cơ khí. Các phần phim tiếp theo trong thương hiệu có thể kể tới là Thế giới bị mất: Công viên kỷ Jura (1997) và Công viên kỷ Jura III (2001), theo sau là bộ ba phim tái khởi động thương hiệu, bắt đầu với Thế giới khủng long (2015).

Nhờ những tiến bộ trong khoa học, người ta có thể trích xuất DNA của khủng long từ máu mà muỗi đã hút được trong hổ phách, và nhân bản thành công chúng. John Hammond đã mở Công viên kỉ Jura trên Isla Nublar, một hòn đảo gần Costa Rica, với hy vọng đem loài khủng long phổ biến tất cả mọi người và trẻ em. Sau khi một nhân viên bị khủng long sát hại, những nhà đầu tư, đại diện là luật sư Donald Gennaro và tiến sĩ Toán học Ian Malcom, đến tham quan công viên để kiểm tra độ an toàn. Để có thêm tiếng nói và mang tính thuyết phục, John Hammond mời tiến sĩ Alan Grant và tiến sĩ Ellie Sattler, những nhà nghiên cứu về động thực vật thời tiền sử. Trong đoàn tham quan còn có hai người cháu của ông Hammond là Lex và Tim Murphy.

Buổi chiều hết giờ làm việc, tất cả nhân viên đã lên tàu về đất liền, đúng lúc có một cơn bão nhiệt đới sắp tiến vào đảo nên chuyến tham quan vòng quanh công viên đã không diễn ra như dự tính: Các con khủng long không xuất hiện khi được gọi. Một con Triceratops bị ốm, nên tiến sĩ Ellie đã rời khỏi đoàn và khám bệnh cho nó. Cô may mắn thoát nạn.

Dennis Nedry, kĩ sư phần mềm vận hành hệ thống máy móc của công viên, lấy trộm các phôi khủng long để bán lấy tiền. Lấy cớ "bộ nhớ mà Linux cấp phát cho hệ thống quá hạn chế, một vài dịch vụ có thể bị tắt đi", anh ta đã vô hiệu hoá một phần quan trọng hệ thống an ninh. Thật ra phần bộ nhớ bị hạn chế chính là những tiến trình mà gã cài vào cho mục đích xấu đó. Hắn tắt một phần hàng rào điện trong công viên để tẩu thoát. Vì hàng rào điện này đã bị vô hiệu hóa, con khủng long Tyrannosaurus sổng chuồng tấn công đoàn tham quan, lúc này vẫn đang mắc kẹt trong hai chiếc xe vì hết điện. Nó giết chết Gennaro và làm cho Malcom bị thương nặng. Nedry trên đường rời khỏi đảo cũng bị khủng long Dilophosaurus giết. Chỉ còn tiến sĩ Grant, Lex và Tim may mắn chạy thoát.

Tiến sĩ Sattler, sau khi ở lại khám cho con khủng long bị ốm, đã lên xe về phòng điều khiển trung tâm. Cô và ông Muldoon đi tìm những người sống sót, tuy nhiên chỉ tìm được Malcolm. Do không biết mật khẩu tái kích hoạt hệ thống an ninh, Hammond phải cho ngắt điện toàn bộ công viên. Arnold được giao nhiệm vụ khởi động lại hệ thống, nhưng không quay về. Sattler và Muldoon, trên đường đến trạm điện, bị khủng long Velociraptor tấn công; Muldoon bị giết, nhưng Sattler đã kích hoạt được mạch điện và thoát thân.

Sau một đêm trong công viên, Grant đưa Lex và Tim về trung tâm tham quan, còn anh đi tìm những người khác. Hai đứa trẻ bị những con Velociraptor tấn công nhưng đã may mắn trốn thoát, gặp lại Grant và Sattler. Nhờ kĩ năng sử dụng máy vi tính của mình, Lex đã khôi phục toàn bộ hệ thống điện trên đảo. Bốn người lại bị lũ khủng long Velociraptor truy sát một lần nữa, nhưng may mắn trốn thoát nhờ sự xuất hiện bất ngờ của con T-Rex của công viên. Cuối cùng, Hammond, Malcolm, Grant, Sattler, Lex và Tim lên trực thăng rời đảo.

  • Sam Neill vai Tiến sĩ Alan Grant
  • Laura Dern vai Tiến sĩ Ellie Sattler
  • Jeff Goldblum vai Tiến sĩ Ian Malcolm
  • Richard Attenborough vai John Hammond
  • Bob Peck vai Robert Muldoon
  • Martin Ferrero vai Donald Gennaro
  • B. D. Wong vai Tiến sĩ Henry Wu
  • Joseph Mazzello vai Tim Murphy
  • Ariana Richards vai Lex Murphy
  • Samuel L. Jackson vai Ray Arnold
  • Wayne Knight vai Dennis Nedry
  • Jerry Molen vai Tiến sĩ Harding
  • Miguel Sandoval vai Juanito Rostagno

Ý tưởng ban đầu của nhà văn Michael Crichton là về một học sinh mới tốt nghiệp tìm cách làm hồi sinh các loài khủng long; ông tiếp tục vật lộn với những ý tưởng về khủng long, cho tới khi viết nên cuốn tiểu thuyết Jurassic Park.[3] Trước khi cuốn tiểu thuyết được xuất bản, Steven Spielberg đã biết tới nó vào tháng 10 năm 1989 khi ông và Crichton đang thảo luận về một kịch bản khác, vốn sau đó trở thành phim truyền hình ER.[4] Spielberg cho rằng điều cuốn hút ông chính là việc Công viên kỷ Jura là "một cái nhìn tuyệt vời về cách mà loài khủng long được đưa trở lại thế giới hiện đại", và vượt qua giới hạn của một bộ phim quái vật thông thường.[5]

Trước khi cuốn sách được xuất bản, Crichton yêu cầu một khoản thù lao không đàm phán ở mức 1,5 triệu USD cũng như phần trăm hoa hồng từ doanh thu của phim. Warner Bros. và Tim Burton, Columbia Pictures và Richard Donner, cùng 20th Century Fox và Joe Dante đã trả giá cho bản quyền này,[4] nhưng Universal Studios đã mua được bản quyền phim vào tháng 5 năm 1990 cho Spielberg.[6] Sau khi hoàn thành Hook, Spielberg muốn thực hiện Bản danh sách của Schindler. Chủ tịch của Music Corporation of America (sau nay là công ty mẹ của Universal Pictures) là Sid Sheinberg đã bật đèn xanh cho bộ phim với điều kiện Spielberg phải thực hiện Công viên kỷ Jura trước.[4] Vị đạo diễn sau đó đã công khai rằng, với việc lựa chọn Công viên kỷ Jura, "tôi sẽ chỉ việc cố gắng thực hiện một phần tiếp nối thật tốt cho Hàm cá mập, nhưng là trên đất liền mà thôi."[7]

Kịch bản

 

Mô hình khung xương năm 1917 của loài Tyrannosaurus do Henry Fairfield Osborn xuất bản, vốn là nền tảng của hình vẽ bìa tiểu thuyết, và sau đó là biểu trưng của bộ phim[8]

Universal trả Crichton 500.000 USD để chuyển thể cuốn tiểu thuyết của chính ông,[9] và ông đã hoàn thành nó trong thời gian Spielberg đang ghi hình phim Hook. Crichton cho biết vì quyển sách "khá dài" nên phần kịch bản chỉ bao quát được khoảng từ 10 tới 20 phần trăm nội dung gốc; nhiều cảnh quay đã bị hủy vì cả lí do kinh phí lẫn thực tiễn, và dù phần kịch bản gốc bao gồm nhiều cảnh máu me, thì những hình ảnh bạo lực này đã được giảm thiểu.[10] Malia Scotch Marmo sau đó đã dành ra 5 tháng, từ tháng 10 năm 1991, để bắt đầu viết lại phần kịch bản.[11]

Tuyển diễn viên

William Hurt ban đầu được đề nghị cho vai diễn Tiến sĩ Alan Grant, nhưng ông đã từ chối và không đọc kịch bản.[12] Harrison Ford cũng được đề nghị vào vai diễn này.[13] Sam Neill cuối cùng được chọn vào vai diễn Grant trong khoảng thời gian ba tới bốn tuần trước khi phim được bấm máy. Neill cho biết "mọi thứ diễn ra khá nhanh. Tôi chưa từng đọc cuốn sách, chẳng biết gì về nó, chưa từng nghe qua về nó, và chỉ trong vài tuần nữa thôi tôi sẽ làm việc với Spielberg."[14] Janet Hirshenson, người chịu trách nhiệm tuyển vai cho bộ phim, sau khi đọc xong cuốn sách đã cảm thấy rằng Jeff Goldblum sẽ là lựa chọn đúng đắn cho vai diễn Ian Malcolm. Jim Carrey cũng đã được thử vai cho vai diễn này. Theo Hirshenson, Carrey "cũng thật là kinh khủng, nhưng tôi đã nghĩ rất nhanh rằng chúng ta đều yêu quý Jeff."[14]

Quay phim

 

Mô hình chiếc Ford Explorers xuất hiện trong phim đặt tại Universal Studios Japan.

Sau 25 tháng tiền kỳ, phim bắt đầu được bấm máy vào ngày 24 tháng 8 năm 1992 tại đảo Kauaʻi thuộc Hawaii.[15] Trong khi Costa Rica là bối cảnh của câu chuyện thì những mối bận tâm của Spielberg về cơ sở hạ tầng cũng như tính tiếp cận của địa điểm đã khiến ông phải lựa chọn lại một địa điểm mà ông đã từng làm việc trước đây.[5] Quá trình ghi hình kéo dài ba tuần bao gồm nhiều phân cảnh ngoài trời trong khu rừng của Isla Nublar.[6] Ngày 11 tháng 9 năm 1992, Bão Iniki đi qua đảo Kauaʻi khiến đoàn làm phim bị mất một ngày quay.[16] Nhiều cảnh quay bão trong phim đều là những cảnh quay diễn ra dưới cơn bão Iniki này. Lịch ghi hình cho phân cảnh rượt đuổi cùng đàn Gallimimus được chuyển tới khu Kualoa Ranch trên đảo Oahu và một trong những cảnh đầu phim phải được tạo dựng kỹ thuật số từ một cảnh phong cảnh. Cảnh mở đầu phim được quay tại khu vực Haiku trên đảo Maui,[17] với một số phân cảnh bổ sung được thực hiện tại "hòn đảo lãng quên" Niihau.[18] Samuel L. Jackson đúng ra phải quay một cảnh bị giết rất dài, trong đó nhân vật Ray Arnold của anh bị loài raptor rượt đuổi và giết chết, những phân cảnh này đã bị hủy bỏ do sự xuất hiện của Bão Iniki.[19]

Các loài khủng long trong phim

Mặc dù tựa đề của phim có nhắc tới kỷ Jura, Brachiosaurus và Dilophosaurus là hai loài khủng long duy nhất thực sự sống trong thời kỳ đó; các loài khủng long khác đều chỉ xuất hiện ở kỷ Creta.[20] Điều này được thừa nhận ngay trong bộ phim, trong phân cảnh Tiến sĩ Grant miêu tả sự tàn bạo của loài Velociraptor với một cậu bé, với lời thoại "Hãy tưởng tượng nếu cháu đang sống trong kỷ Creta..."[21]

  • Tyrannosaurus
  • Velociraptor
  • Dilophosaurus
  • Brachiosaurus
  • Triceratops
  • Gallimimus
  • Parasaurolophus
  • Alamosaurus

Âm nhạc

Nhà soạn nhạc John Williams bắt đầu biên soạn các bản nhạc vào tháng 2 năm 1993, và thực hiện công tác thu âm vào một tháng sau đó. Tương tự như với Close Encounters of the Third Kind, bộ phim của Spielberg mà ông cũng tham gia biên soạn phần nhạc nền, Williams cảm thấy rằng ông cần phải viết nên "những nhạc phẩm có thể truyền tải được cảm giác 'kinh sợ' và mê hoặc" chia đều với "niềm hạnh phúc và thích thú tột độ" mà khán giả có thể có được khi nhìn thấy những loài khủng long sống. Ngoài ra, trong các phân cảnh hồi hộp như cảnh Tyrannosaurus tấn công, phần nhạc chủ đề lại mang âm sắc kinh hãi hơn.[22] Album nhạc phim đầu tiên được phát hành vào ngày 25 tháng 5 năm 1993.[23] Để kỷ niệm 20 năm ngày công chiếu bộ phim, một phiên bản nhạc phim mới được phát hành trên các phương tiện số vào ngày 9 tháng 4 năm 2013, bao gồm bốn bản nhạc tặng kèm được chọn lọc bởi Williams.[24]

  1. ^ “Jurassic Park”. Ủy ban phân loại điện ảnh Vương quốc Anh. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  2. ^ a b “Jurassic Park (1993)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  3. ^ Crichton, Michael (2001). Michael Crichton on the Jurassic Park Phenomenon (DVD). Universal.
  4. ^ a b c McBride, Joseph (1997). Steven Spielberg. Faber and Faber, 416–9. ISBN 0-571-19177-0
  5. ^ a b "Return to Jurassic Park: Dawn of a New Era", Jurassic Park Blu-ray (2011)
  6. ^ a b Ghi chú sản xuất trên DVD
  7. ^ McBride, tr. 418.
  8. ^ Caron, C. (ngày 20 tháng 6 năm 2018). “The Hidden History of the Jurassic Park Logo”. TIFF (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  9. ^ Appelo, Tim (ngày 7 tháng 12 năm 1990). “Leaping Lizards”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  10. ^ Biodrowski, Steve. "JURASSIC PARK: Michael Crichton on Adapting his Novel to the Screen". Tạp chí Cinefantastique, tháng 8 năm 1993 (Vol. 24, No.2), tr. 12
  11. ^ Shay, Duncan, tr. 39–42.
  12. ^ “Answers to all that jazz about 'Jurassic'”. The San Bernardino Sun. ngày 19 tháng 6 năm 1993. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  13. ^ Clark, Noelene (ngày 16 tháng 9 năm 2011). “Harrison Ford on an 'Indy' sequel, turning down 'Jurassic Park'”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  14. ^ a b Stack, Tim; Staskiewicz, Keith (ngày 4 tháng 4 năm 2013). “Welcome to Jurassic Park: An oral history”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  15. ^ Shay, Duncan, tr. 65 và 67.
  16. ^ Shay, Duncan, tr. 86.
  17. ^ MJ Harden (ngày 18 tháng 2 năm 2014). “NBC Features Rappel Maui on 1st Look with Audrina Patridge”.
  18. ^ Eric P. Olsen (ngày 18 tháng 2 năm 2003). “Hawaii Plantsman Confounds Greenies; Keith Robinson has a green thumb with endangered plants and a belief that the 'green' tactics used by the environmental establishment are a total waste of time”. Inisght on the News blog. CBS Interactive Business Network. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  19. ^ de Semlyen, Nick (tháng 9 năm 2013). “Jurassic Park 20th Anniversary: When Dinosaurs Ruled the Earth” (PDF). Empire. tr. 5. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2015.
  20. ^ Gould, Stephen (ngày 12 tháng 8 năm 1993). “Dinomania”. The New York Review of Books. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  21. ^ Guzman, Rafer (ngày 4 tháng 4 năm 2013). “Movies: Dino-mite! Back to Jurassic Park, in 3-D”. Portland Press Herald. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  22. ^ Siegel, Robert (ngày 20 tháng 2 năm 2012). “The Making of Steven Spielberg's Jurassic Park”. Blu-Ray.com. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  23. ^ “Jurassic Park (Original Motion Picture Soundtrack)”. AllMusic. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  24. ^ “Remastered Jurassic Park Soundtrack Includes 4 Unreleased John Williams Tracks” (Thông cáo báo chí). Universal Music Enterprises. ngày 26 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.

Tham chiếu

  • McBride, Joseph (1997). Steven Spielberg. Faber and Faber. ISBN 0-571-19177-0.
  • Shay, Don; Duncan, Jody (1993). The Making of Jurassic Park: An Adventure 65 million Years in the Making. Boxtree Limited. tr. 61. ISBN 1-85283-774-8.
  • Shone, Tom (2004). Blockbuster: How Hollywood learned to stop worrying and love the summer. Simon and Schuster. ISBN 978-0-7432-3568-6.

  • Công viên kỷ Jura trên Internet Movie Database
  • Công viên kỷ Jura tại AllMovie
  • Công viên kỷ Jura tại Rotten Tomatoes
  • Công viên kỷ Jura tại Metacritic
  • Công viên kỷ Jura tại Box Office Mojo

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Công_viên_kỷ_Jura&oldid=68618950”