Theo bản thân em những Biện pháp nào hạn chế ảnh hưởng xấu của thuốc hoá học bảo vệ thực vật

Mô hình IPM trên cây chè được Chi cục BVTV triển khai có hiệu quả ở xã Đồng Xuân, huyện Thanh Ba, đang tiếp tục được nhân rộng ra nhiều vùng chè trên địa bàn tỉnh.

PTĐT- Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) là vật tư kỹ thuật không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp. Nhưng nếu sử dụng quá mức sẽ dẫn đến hậu quả rất tai hại. Vì vậy, giải quyết hài hòa giữa việc sử dụng thuốc BVTV để bảo vệ sản xuất nông nghiệp với việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường là một vấn đề quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp hiện đại.Tại kỳ họp thứ Tư, Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XVIII vừa qua, ông Nguyễn Ngọc Sơn - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thông tin về tình hình sử dụng thuốc BVTV trên địa bàn tỉnh hiện nay: Trung bình một năm, lượng thuốc BVTV được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh vào khoảng 100 tấn. Số vỏ bao bì sau khi sử dụng khoảng 5 tấn, hầu hết chưa được thu gom để xử lý. Toàn tỉnh hiện mới chỉ có 1.600 bể chứa vỏ bao bì trong khi để đáp ứng yêu cầu thu gom cần phải có tới 18.000 bể. Ngoài ra, việc xử lý bao bì cũng còn nhiều bất cập do chưa có đơn vị nào đứng ra để thu gom, vận chuyển và xử lý. Trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam các loại thuốc BVTV đã được sử dụng từ nhiều năm trước đây với nhiều loại thuốc BVTV có độc tính cao, tồn lưu lâu trong môi trường. Hiện nay, các loại thuốc BVTV thế hệ mới có độc tính thấp, ít tồn lưu trong môi trường đang thay thế dần các loại thuốc cũ. Tuy nhiên, dù là loại thuốc BVTV nào cũng đều có tính chất độc hại, bởi bản chất của thuốc BVTV là dùng độc tố để tiêu diệt sâu bọ và mầm bệnh. Bà Nguyễn Thị Tuyết Minh, một nông dân ở khu 4, xã Tử Đà, huyện Phù Ninh nhớ lại: Chỉ cách đây hơn 20 năm, cứ gần đến mùa gặt là người lớn, trẻ em đều tranh thủ buổi tối ra đồng bắt châu chấu, muồm muỗm về làm thức ăn. Ở kênh mương, các loại tép, tôm, cua từng đàn bơi lội, be bờ tát một lúc là kiếm được mẻ thức ăn ngay. Bây giờ thì do sử dụng thuốc BVTV quá nhiều nên những loại tôm, tép nhỏ đó rất hiếm. Ngay cả châu chấu, cào cào cũng ít hơn trước. Việc sử dụng thuốc BVTV bừa bãi không chỉ khiến sức khỏe của cộng đồng bị ảnh hưởng bởi tồn dư trong sản phẩm mà còn gây ô nhiễm nguồn tài nguyên đất, nước sinh hoạt, môi trường sống... mà còn tác động trực tiếp đến tính mạng của người sản xuất. Theo số liệu của khoa Chống độc, Bệnh viện Bạch Mai, thành phố Hà Nội thì chỉ trong năm 2016 đã có gần 500 ca ở các tỉnh miền Bắc phải cấp cứu do bị nhiễm độc khi đang sử dụng các loại thuốc BVTV, chủ yếu là thuốc trừ cỏ. Việc lạm dụng thuốc BVTV đang xảy ra khá phổ biến trong sản xuất nông nghiệp, người dân sử dụng thuốc BVTV tùy tiện, không theo khuyến cáo của cơ quan chuyên môn nên việc lạm dụng thuốc BVTV càng trở nên nguy hiểm, trong đó đáng lo ngại nhất là rau ăn lá, rau gia vị, cây ăn quả… Đại bộ phận bà con nông dân khi phát hiện thấy sâu bệnh là mua thuốc của các cửa hàng kinh doanh, pha và phun theo kinh nghiệm hoặc hướng dẫn của cửa hàng. Việc nhiều lô chè xuất khẩu của một số doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh đã bị hoàn trả do tồn dư thuốc BVTV vượt ngưỡng cho phép trước đây là minh chứng rõ rệt. Điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của một trong những loại cây trồng chủ lực của tỉnh, khiến cho có những thời điểm người trồng chè lao đao vì giá xuống quá thấp; doanh nghiệp tồn tới hàng ngàn tấn chè, sản xuất bị ngừng trệ... Theo thống kê của Chi cục BVTV, toàn tỉnh hiện có 399 cơ sở kinh doanh thuốc BVTV với khoảng hơn 400 loại thuốc đang được lưu thông. Đây là con số khá lớn, khiến người nông dân lúng túng khi lựa chọn các loại thuốc BVTV để phòng trừ sâu bệnh. Ông Đỗ Ngọc Tuấn, chủ một cửa hàng kinh doanh vật tư nông nghiệp ở khu 7, thị trấn Hưng Hóa, huyện Tam Nông cho biết: Trên thị trường hiện có khá nhiều loại thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học, độc tính thấp và thời gian tồn lưu trong môi trường, sản phẩm ngắn hơn so với các loại thuốc có nguồn gốc hóa học. Tuy nhiên, giá thành của các loại thuốc này thường cao hơn so với các loại thuốc hóa học từ 20 đến 40% nên đa số bà con nông dân vẫn lựa chọn thuốc hóa học. Trong quá trình bán hàng, chúng tôi cũng đã cố gắng tư vấn cho bà con sử dụng thuốc sinh học nhưng không mấy thành công.

Để bảo đảm an toàn thực phẩm cho nông sản tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, hơn 20 năm qua, ngành nông nghiệp đã ban hành danh mục cấm hoặc hạn chế một số thuốc BVTV sử dụng trên cây trồng. Tính đến năm 2015, gần 200 hoạt chất là hóa chất BVTV, điều hòa sinh trưởng, trừ cỏ, trừ ốc... đã nằm trong danh mục không được phép sử dụng trong nông nghiệp ở nước ta. Tuy nhiên, một số hoạt chất BVTV ở nước ngoài đã cấm sử dụng nhưng Việt Nam thì chưa. Trước vấn đề này, mới đây, ngành nông nghiệp tiếp tục đưa 3 hoạt chất Carbendazim, Benomyl, Thiophanate-methyl vào danh mục thuốc BVTV cấm sử dụng. Đây là một hành động cần thiết và kịp thời, mang lại nhiều lợi ích,  bảo đảm an toàn thực phẩm, theo hướng hữu cơ, sạch hơn.

Đoàn viên thanh niên Chi đoàn Báo Phú Thọ, Sở NN& PTNT và Sở Kế hoạch & Đầu tư lắp đặt các bể chứa vỏ bao bì thuốc BVTV ở xã Mai Tùng, huyện Hạ Hòa. Một trong những yêu cầu tiên quyết để sản xuất sạch, an toàn là sử dụng vật tư nông nghiệp, không chỉ thuốc BVTV mà cả phân bón và vật tư đó phải nằm trong danh mục được ngành nông nghiệp Việt Nam cho phép sử dụng hoặc hạn chế sử dụng. Bên cạnh đó, người sản xuất còn phải sử dụng đúng liều lượng, thời gian cách ly trước khi thu hoạch nông sản. Bởi vì, nếu sử dụng hoạt chất được phép sử dụng nhưng với liều lượng cao và không tuân thủ thời gian cách ly cũng gây ra tình trạng tồn dư hóa chất trong nông sản. Giải pháp khác tiên tiến và đang được ngành nông nghiệp tỉnh cố gắng mở rộng là sử dụng phương pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) mà nội dung quan trọng nhất là giảm thiểu số lần sử dụng thuốc BVTV trong vụ. Vì thế, nông dân là người có vai trò quyết định trong kiểm soát việc sử dụng thuốc BVTV. Việc triển khai IPM ở tỉnh trong những năm qua đã đạt được một số kết quả khả quan. Các vùng sản xuất nông nghiệp an toàn được nhân lên; các mẫu nông sản xét nghiệm phát hiện tồn dư thuốc BVTV giảm đáng kể; tình trạng vứt vỏ bao bì  thuốc bừa bãi sau khi sử dụng được hạn chế đáng kể… Theo đánh giá của Chi cục BVTV, đến nay có khoảng 23,5% diện tích chè đã ứng dụng IPM đầy đủ; 19% số hộ nông dân sản xuất hiểu biết và áp dụng IPM; lượng thuốc hóa học trừ sâu bệnh giảm trên 10%; số lần phun thuốc BVTV giảm 6 - 8 lượt phun so với tập quán (tập quán phun 20 - 25 lượt/năm). Trong 6 tháng đầu năm, ngành nông nghiệp đã tiến hành lấy 182 mẫu sản phẩm nông sản để xét nghiệm. Theo báo cáo của Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản có 163 mẫu kiểm tra nhanh không phát hiện tồn dư thuốc BVTV… Đây là tín hiệu đáng mừng cho thấy nhận thức về sản xuất an toàn của người nông dân ngày càng được nâng lên.

Để hạn chế việc sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất, trả lại môi trường sinh thái trong lành, giải pháp lâu dài là phải tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết và thay đổi tập quán của nông dân; đẩy mạnh chương trình khuyến nông, sản xuất cây trồng an toàn theo quy trình VietGAP, trước hết là ở những vùng trồng rau an toàn, cây ăn quả, nhân rộng mô hình IPM, nhất là trên cây chè và cây ăn quả. Kiểm soát nghiêm ngặt việc kinh doanh, buôn bán, sản xuất và sử dụng thuốc BVTV. Xây dựng và củng cố về tổ chức, nội dung hoạt động của mạng lưới dịch vụ BVTV cơ sở. Đẩy mạnh công tác tập huấn cho cán bộ kỹ thuật cơ sở, đại lý bán thuốc BVTV và người nông dân. Tiếp tục vận động các địa phương xây dựng các bể chứa bao bì thuốc BVTV; tìm kiếm, liên kết với doanh nghiệp để xử lý bao bì… Bên cạnh đó, cần có chính sách và biện pháp khuyến khích để hỗ trợ mọi mặt trong việc sử dụng các loại thuốc BVTV sinh học, thuốc thảo mộc, thuốc thế hệ mới trong sản xuất nông nghiệp...


 

  • Trước ngày 29/11/2021 , Sở Y tế tỉnh Phú Thọ đã triển khai tiêm vắc xin mũi 1 ngừa COVID-19 cho trẻ em từ 12 đến 14 tuổi (tương đương khối lớp 7,8,9) đang học tập, sinh sống trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
  • Công ty cổ phần Tuấn Huy đã thực hiện đánh giá tác động môi trường của dự án " Khu nhà ở đô thị và tổ hợp văn hóa, thể thao tại thị trấn Cẩm Khê, huyện Cẩm Khê " thuộc địa bàn thị trấn Cẩm Khê, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ.
  • 3 chính sách mới về đất đai có hiệu lực từ 28/12/2021
  • Ngành TN&MT triển khai thực hiện Chỉ thị 19/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Kế hoạch 5 năm (2021-2025) theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
  • Hướng dẫn sử dụng "Ứng dụng quản lý F0": f0.phutho.vn
  • BÁO CÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2021 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
  • Cùng hành động để thực hiện cam kết COP26
  • Sửa Luật Tài nguyên nước - Dấu mốc quan trọng trong quản lý tài nguyên nước tại Việt Nam
  • KHAI THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN CẦN ĐI ĐÔI VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
  • Thủ tướng Phạm Minh Chính: Chủ động bảo vệ chủ quyền quốc gia, an toàn, an ninh trên không gian mạng

Thứ tư - 23/01/2008 22:59

Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) là các loại hoá chất do con người sản xuất ra để trừ sâu bệnh và cỏ dại có hại cho cây trồng. Thuốc BVTV được phân thành 2 loại chính là thuốc trừ sâu bệnh và thuốc diệt cỏ. Các loại thuốc này có ưu điểm là diệt sâu bệnh, cỏ dại nhanh, sử dụng lại đơn giản nên được người sử dụng ưa thích.

Tuy nhiên thuốc BVTV cũng có nhiều tác hại gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khoẻ con người, đó là :  Trong tự nhiên có rất nhiều loại sâu hại khác nhau, có loại sâu đục vào thân cây có loại ẩn núp dưới lá, có loại lại chui vào đất nên phải dùng nhiều loại thuốc phòng trừ khác nhau để diệt trừ chúng. Việc này gây khó khăn cho người sử dụng, nhất là những người có trình độ văn hoá thấp. Do điều kiện kinh tế, nhiều người chỉ thích mua thuốc có giá rẻ để phun, không cần biết phạm vi tác dụng của chúng ra sao. Nhiều người thường phun quá liều lượng cần thiết với quan niệm “để cho chắc ăn”, làm tăng liều lượng thuốc thừa tích đọng trong môi trường đất và nước. Các loại thuốc trừ sâu thường có tính năng rộng, nghĩa là có thể diệt được rất nhiều loại côn trùng. Khi dùng thuốc diệt sâu hại, một số côn trùng có ích cũng bị diệt luôn đồng thời ảnh hưởng đến các loài chim ăn sâu do chim ăn phải sâu đã trúng độc. Nói cách khác, sau khi phun thuốc trừ sâu, số lượng thiên địch của các loại sâu cũng giảm. Điều này có lợi cho sự phát triển của sâu hại. Các loại thuốc trừ sâu đều có tính độc cao. Trong quá trình sử dụng thuốc, một lượng thuốc nào đó có thể dính bám chặt vào lá, hoa quả, đi vào trong thân cây. Người và động vật ăn phải các loại nông sản này có thể bị ngộ độc ở nhiều cấp độ khác nhau. Tuỳ theo cấp độ bị nhiễm có thể bị ngộ độc tức thời có thể dẫn đến tử vong hoặc nhiễm độc nhẹ từ từ trong một thời gian dài tích tụ trong cơ thể gây ra nhiều biến chứng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, đặc biệt là bệnh ung thư. Do trình độ hạn chế, một số người sử dụng không tuân thủ đầy đủ các quy định về sử dụng, bảo quản thuốc trừ sâu, có người cất thuốc vào chạn thức ăn, tủ đựng quần áo.v.v. nên đã có những trường hợp ngộ độc đáng thương tâm xảy ra  Một số loại thuốc trừ sâu có khả năng bay hơi, phát tán trong môi trường không khí nên gây khó chịu, mệt mỏi thậm chí gây choáng ngất cho người trực tiếp phun thuốc trên đồng ruộng, nhất là trong trường hợp không có các biện pháp  bảo hộ, phòng tránh tốt.  Việc sử dụng thuốc trừ sâu liên tục sẽ sinh chứng nhờn thuốc. Vì vậy, mỗi loại thuốc trừ sâu chỉ có tác dụng mạnh trong một số năm đầu sử dụng. để hạn chế sự nhờn thuốc, tăng khả năng diệt trừ sâu hại, người ta thường tăng dần  nồng độ thuốc, tăng số lần dùng thuốc. Tuy nhiên biện pháp này không lâu dài do không thể tăng nồng độ và số lần phun thuốc được. Mặt khác, nó làm ô nhiễm môi trường mạnh hơn do lượng tồn dư trong môi trường ngày một nhiều lên.  Một số loại thuốc trừ sâu có tính năng hoá học ổn định, khó phân huỷ nên sẽ tích tụ trong môi trường. Sau nhiều lần sử dụng, lượng tích luỹ này có thể gây độc cho môi trường đất, môi trường nước và không khí, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của con người và vật nuôi. Do thuốc tồn đọng lâu không phân huỷ nên có thể theo nước và gió phát tán đến các vùng khác, theo các loài  sinh vật đi khắp mọi nơi. Thuốc diệt cỏ cũng được dùng ở mức độ ít hơn, nhưng do có tính độc nên chúng cũng gây ra những ảnh hưởng, tác hại như thuốc trừ sâu.  Do thói quen, một số ngưòi khi sử dụng hết thuốc, thường vứt bừa bãi những vỏ bao bì chứa thuốc, đặc biệt là các chai lọ bằng thuỷ tinh, có khả năng gây thương tích cho con người và gia súc.  Như vậy, thuốc trừ sâu, diệt cỏ ngoài tác dụng tích cực bảo vệ mùa màng, tăng hiệu quả sản xuất, chúng còn gây nhiều hậu quả môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hệ sinh thái và con người. Do đó phải thận trọng khi bảo quản, sử dụng thuốc và phải dùng đúng liều lượng, đúng chủng loại, đúng lúc, đúng phương pháp theo chỉ dẫn của cán bộ kỹ thuật hoặc chỉ dẫn ghi trên bao bì, nhãn mác. Các vỏ bao bì chứa đựng thuốc sử dụng xong phải được xử lý đúng cách như đối với rác thải độc hại để không làm ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tới con người và vật nuôi.

Tác giả bài viết: Bạch Thái Toàn - Phó chánh Văn phòng Sở

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Video liên quan

Chủ đề