Tại sao thái lan không là thuộc địa

Trong bối cảnh các nước Đông Nam Á đều bị thế lực thực dân phương Tây xâm chiếm thuộc địa, Thái Lan là nước duy nhất vẫn giữ được hình thức độc lập. Vậy để tìm hiểu lý do Vì sao Thái Lan còn giữ được hình thức độc lập?, Chúng tôi xin cung cấp đến Quý bạn đọc bài viết dưới đây:

Giới thiệu sơ lược về đất nước Thái Lan

Thái Lan nằm ở vùng Đông Nam Á. Thái Lan giáp Lào và Myanma phía bắc, giáp Lào và Campuchia ở phía đông, giáp vịnh Thái Lan và Malaysia phía nam, giáp Myanma và biển Andaman phía tây.Trải qua 800 năm lịch sử, Thái Lan tự hào là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không bị thực dân hóa. Thái Lan có thể chế quân chủ nghị viện từ năm 1932. Người Thái có truyền thống tôn sùng hoàng gia nên Vua rất được tôn kính và sùng bái.

Thái Lan cũng từng được gọi là Xiêm, đây là tên gọi chính thức của nước này đến ngày 23 tháng 6 năm 1939 khi nó được đổi thành Thái Lan. Từ năm 1945 đến ngày 11 tháng 5 năm 1949, tên Thái Lan lại được đổi lại thành Xiêm, sau đó nó được đổi lại thành Thái Lan như ngày nay. Từ “Thái” (ไทย) trong tiếng Thái có nghĩa là “tự do”. Từ “Thái Lan” trong tiếng Việt có xuất xứ từ tiếng Anh “Thailand” (trong đó land nghĩa là đất nước, xứ sở), và “Thailand” được dịch từ ประเทศไทย (Prathet Thai) với nghĩa là “nước Thái”.

Thái Lan còn giữ được hình thức độc lập bởi vì chính sách ngoại giao khôn khéo. Thái Lan đã lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh và Pháp, cùng với đó là các chính sách ngoại giao vô cùng khéo léo, do đó Thái Lan còn giữ được chủ quyền.

– Thái Lan chủ động ngoại giao và buôn bán với các nước Phương Tây thông qua việc ký kết các hiệp ước. Nhờ đó Thái lan thoát khỏi ách thuộc địa của các nước đế quốc lúc bấy giờ đang tranh giành nhau vùng Đông Nam Á. Thái lan đã ký hiệp định phân định biên giới sông Mekong với Pháp và tránh né xung đột với thực dân Pháp vào cuối thế kỷ XIX. Nhờ việc thực hiện các chính sách ngoại giao với các nước Phương Tây, Thái lan đã tiếp thu được nền khoa học kỹ thuật Phương Tây, mặt khác tránh được các cuộc đối đầu không cân sức với các nước Phương Tây.

– Việc Thái Lan giữ được nền độc lập nhờ sự đóng góp rất lớn của những vị vua cai trị đất nước, một số vị vua đã đặt nền tảng cho chính sách đối ngoại cân bằng ảnh hưởng giữa các nước Phương Tây và thực hiện các công cuộc cải cách như phong trào Âu hóa, ký kết các hiệp ước bất bình đẳng, sau khi xây dựng quan hệ bình đẳng với các nước Phương Tây các hiệp ước bất bình đẳng trước đó Thái Lan đã ký bị xóa bỏ.

– Thái Lan trở thành vùng đệm địa lý giữa các thế lực thực dân đứng đầu thế giới, vị trí vùng đệm cùng chính sách “ngoại giao cây sậy” mềm dẻo, linh hoạt đã giúp Thái Lan trở thành nước Đông Nam Á duy nhất không bị xâm lược thuộc địa.

– Tham vọng trở thành cường quốc khu vực đã khiến Thái lan sớm tiếp cận với các nước Phương Tây, tận dụng sức mạnh của các nước Phương Tây để phát triển đất nước và duy trì nền độc lập dân tộc.

– Thái Lan đứng vững trước mưu đồ truyền giáo của các nước Phương Tây nhờ vai trò của vua trong đời sống tôn giáo của đất nước và nền tảng văn hóa phật giáo có chiều sâu.

Những nguyên nhân trên là yếu tố giúp cho Thái Lan giữ vững được hình thức độc lập khi đứng trước sự lăm le xâm chiếm của các nước Phương Tây.

Tại sao thái lan không là thuộc địa

Chính sách “Ngoại giao cây sậy” của Thái Lan

Giữa thế kỷ XIX Thái Lan đứng trước hiểm họa xâm lăng của các nước Phương Tây. Khi đó, về phía tây, Đế quốc Anh đã chiếm Miến Điện, trong khi ở phía đông, Pháp đã chiếm 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Lúc này Thái Lan vô tình trở thành vùng đệm địa lý giữa 2 thế lực đứng đầu thế giới khi đó là Anh và Pháp. Vì không muốn nổ ra xung đột với đối thủ, Anh và Pháp quyết định trung lập hóa Thái Lan, cả 2 sẽ tự kiềm chế, không tiến quân xâm chiếm nước này. Nhờ sự may mắn đó và sự khôn khéo trong việc lợi dụng mâu thuẫn của Anh và Pháp Thái Lan vẫn giữ được độc lập trong tương đối lâu dài trong thời kỳ đế quốc thực dân xâm chiếm thuộc địa và trong Thế chiến thứ hai.

Nhờ việc ký hiệp ước hữu nghị, thương mại với Anh và Mỹ và hiệp ước trao đổi biên giới các tỉnh phía bắc Malaysia hiện tại năm 1909 Thái Lan thoát khỏi ách thuộc địa của các nước đế quốc lúc bấy giờ đang tranh giành khu vực Đông Nam Á. Thái Lan cũng đã kí hiệp định phân định biên giới sông Mekong với Pháp và tránh né xung đột với thực dân Pháp vào cuối thế kỷ 19. Mặc dù giữ được vị thế độc lập, nhưng Thái Lan cũng phải nhân nhượng nhiều quyền lợi và phải cắt lãnh thổ cho Anh và Pháp.

Trong Thế chiến thứ hai, Thái Lan là đồng minh lỏng lẻo của Nhật Bản, cho Nhật đi qua đất Thái tiến đánh Malaysia, Myanma. Lợi dụng thế đang suy yếu của nước Pháp (bị Đức quốc xã xâm chiếm) và sức mạnh hải quân khá phát triển Thái Lan đã gây chiến với Pháp để tranh giành lãnh thổ Đông Dương. Tuy nhiên, sau khi bị hải quân Pháp bất ngờ tiến công đánh bại cùng với sự suy yếu của quân đội phát xít Nhật vào cuối thế chiến, một nhóm quân đội Thái Lan tiến hành đảo chính vào ngày ngày 1 tháng 8 năm 1944, lật đổ chính phủ thân Nhật và ngay lập tức chuyển nước Thái từ một đồng minh lỏng lẻo của Nhật trong một đêm trở thành đồng minh của Mỹ và tiếp tục giữ được độc lập và hòa bình.

Chính sách ngoại giao của Thái là “ngoại giao cây sậy”, tức là gió thổi về phía nào thì ngả về phía nấy để tránh đụng độ hoặc đem lợi về cho mình.

Trên đây, là toàn bộ nội dung liên quan đến câu hỏi: Vì sao Thái Lan còn giữ được hình thức độc lập. Mọi thắc mắc liên quan đến nội dung bài viết trên, quý vị có thể liên hệ Chúng tôi để được giải đáp nhanh chóng nhất.

Thái Lan cũng từng được gọi là Xiêm, đây là tên gọi chính thức của nước này đến ngày 23 tháng 6 năm 1939 khi nó được đổi thành Thái Lan.


Trong bối cảnh các nước Đông Nam Á đều bị thế lực thực dân phương Tây xâm chiếm thuộc địa, Thái Lan là nước duy nhất vẫn giữ được hình thức độc lập. Vậy để tìm hiểu lý do Vì sao Thái Lan còn giữ được hình thức độc lập?, Chúng tôi xin cung cấp đến Quý bạn đọc bài viết dưới đây:

Giới thiệu sơ lược về đất nước Thái Lan

Thái Lan nằm ở vùng Đông Nam Á. Thái Lan giáp Lào và Myanma phía bắc, giáp Lào và Campuchia ở phía đông, giáp vịnh Thái Lan và Malaysia phía nam, giáp Myanma và biển Andaman phía tây.Trải qua 800 năm lịch sử, Thái Lan tự hào là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không bị thực dân hóa. Thái Lan có thể chế quân chủ nghị viện từ năm 1932. Người Thái có truyền thống tôn sùng hoàng gia nên Vua rất được tôn kính và sùng bái.

Thái Lan cũng từng được gọi là Xiêm, đây là tên gọi chính thức của nước này đến ngày 23 tháng 6 năm 1939 khi nó được đổi thành Thái Lan. Từ năm 1945 đến ngày 11 tháng 5 năm 1949, tên Thái Lan lại được đổi lại thành Xiêm, sau đó nó được đổi lại thành Thái Lan như ngày nay. Từ “Thái” [ไทย] trong tiếng Thái có nghĩa là “tự do”. Từ “Thái Lan” trong tiếng Việt có xuất xứ từ tiếng Anh “Thailand” [trong đó land nghĩa là đất nước, xứ sở], và “Thailand” được dịch từ ประเทศไทย [Prathet Thai] với nghĩa là “nước Thái”.

Bạn đang xem: Tại sao thái lan không trở thành thuộc địa

Vì sao Thái Lan còn giữ được hình thức độc lập?

Thái Lan còn giữ được hình thức độc lập bởi vì chính sách ngoại giao khôn khéo. Thái Lan đã lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh và Pháp, cùng với đó là các chính sách ngoại giao vô cùng khéo léo, do đó Thái Lan còn giữ được chủ quyền.

– Thái Lan chủ động ngoại giao và buôn bán với các nước Phương Tây thông qua việc ký kết các hiệp ước. Nhờ đó Thái lan thoát khỏi ách thuộc địa của các nước đế quốc lúc bấy giờ đang tranh giành nhau vùng Đông Nam Á. Thái lan đã ký hiệp định phân định biên giới sông Mekong với Pháp và tránh né xung đột với thực dân Pháp vào cuối thế kỷ XIX. Nhờ việc thực hiện các chính sách ngoại giao với các nước Phương Tây, Thái lan đã tiếp thu được nền khoa học kỹ thuật Phương Tây, mặt khác tránh được các cuộc đối đầu không cân sức với các nước Phương Tây.

– Việc Thái Lan giữ được nền độc lập nhờ sự đóng góp rất lớn của những vị vua cai trị đất nước, một số vị vua đã đặt nền tảng cho chính sách đối ngoại cân bằng ảnh hưởng giữa các nước Phương Tây và thực hiện các công cuộc cải cách như phong trào Âu hóa, ký kết các hiệp ước bất bình đẳng, sau khi xây dựng quan hệ bình đẳng với các nước Phương Tây các hiệp ước bất bình đẳng trước đó Thái Lan đã ký bị xóa bỏ.

– Thái Lan trở thành vùng đệm địa lý giữa các thế lực thực dân đứng đầu thế giới, vị trí vùng đệm cùng chính sách “ngoại giao cây sậy” mềm dẻo, linh hoạt đã giúp Thái Lan trở thành nước Đông Nam Á duy nhất không bị xâm lược thuộc địa.

– Tham vọng trở thành cường quốc khu vực đã khiến Thái lan sớm tiếp cận với các nước Phương Tây, tận dụng sức mạnh của các nước Phương Tây để phát triển đất nước và duy trì nền độc lập dân tộc.

Xem thêm: Điện Biên: Bế Mạc Lễ Hội Hoa Ban Điện Biên 2016 Sẽ Diễn Ra Từ 13

– Thái Lan đứng vững trước mưu đồ truyền giáo của các nước Phương Tây nhờ vai trò của vua trong đời sống tôn giáo của đất nước và nền tảng văn hóa phật giáo có chiều sâu.

Những nguyên nhân trên là yếu tố giúp cho Thái Lan giữ vững được hình thức độc lập khi đứng trước sự lăm le xâm chiếm của các nước Phương Tây.

Chính sách “Ngoại giao cây sậy” của Thái Lan

Giữa thế kỷ XIX Thái Lan đứng trước hiểm họa xâm lăng của các nước Phương Tây. Khi đó, về phía tây, Đế quốc Anh đã chiếm Miến Điện, trong khi ở phía đông, Pháp đã chiếm 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Lúc này Thái Lan vô tình trở thành vùng đệm địa lý giữa 2 thế lực đứng đầu thế giới khi đó là Anh và Pháp. Vì không muốn nổ ra xung đột với đối thủ, Anh và Pháp quyết định trung lập hóa Thái Lan, cả 2 sẽ tự kiềm chế, không tiến quân xâm chiếm nước này. Nhờ sự may mắn đó và sự khôn khéo trong việc lợi dụng mâu thuẫn của Anh và Pháp Thái Lan vẫn giữ được độc lập trong tương đối lâu dài trong thời kỳ đế quốc thực dân xâm chiếm thuộc địa và trong Thế chiến thứ hai.

Nhờ việc ký hiệp ước hữu nghị, thương mại với Anh và Mỹ và hiệp ước trao đổi biên giới các tỉnh phía bắc Malaysia hiện tại năm 1909 Thái Lan thoát khỏi ách thuộc địa của các nước đế quốc lúc bấy giờ đang tranh giành khu vực Đông Nam Á. Thái Lan cũng đã kí hiệp định phân định biên giới sông Mekong với Pháp và tránh né xung đột với thực dân Pháp vào cuối thế kỷ 19. Mặc dù giữ được vị thế độc lập, nhưng Thái Lan cũng phải nhân nhượng nhiều quyền lợi và phải cắt lãnh thổ cho Anh và Pháp.

Trong Thế chiến thứ hai, Thái Lan là đồng minh lỏng lẻo của Nhật Bản, cho Nhật đi qua đất Thái tiến đánh Malaysia, Myanma. Lợi dụng thế đang suy yếu của nước Pháp [bị Đức quốc xã xâm chiếm] và sức mạnh hải quân khá phát triển Thái Lan đã gây chiến với Pháp để tranh giành lãnh thổ Đông Dương. Tuy nhiên, sau khi bị hải quân Pháp bất ngờ tiến công đánh bại cùng với sự suy yếu của quân đội phát xít Nhật vào cuối thế chiến, một nhóm quân đội Thái Lan tiến hành đảo chính vào ngày ngày 1 tháng 8 năm 1944, lật đổ chính phủ thân Nhật và ngay lập tức chuyển nước Thái từ một đồng minh lỏng lẻo của Nhật trong một đêm trở thành đồng minh của Mỹ và tiếp tục giữ được độc lập và hòa bình.

Chính sách ngoại giao của Thái là “ngoại giao cây sậy”, tức là gió thổi về phía nào thì ngả về phía nấy để tránh đụng độ hoặc đem lợi về cho mình.

Trên đây, là toàn bộ nội dung liên quan đến câu hỏi: Vì sao Thái Lan còn giữ được hình thức độc lập. Mọi thắc mắc liên quan đến nội dung bài viết trên, quý vị có thể liên hệ Chúng tôi để được giải đáp nhanh chóng nhất.

Tag: tại sao thái lan không trở thành thuộc địa

Danh mục: Hỏi đáp
Nguồn: //camnanghaiphong.vn

Thế kỷ 16, người Tây phương với vũ khí hiện đại đã dòm ngó và thôn tính các vùng đất ở phương Đông. Các nước Đông Nam Á trở thành mục tiêu của họ. Năm 1563 người Bồ Đào Nha xâm nhập Ma Cao, năm 1568 người Tây Ban Nha chiếm Philippines, người Hà Lan chiếm đảo Java [60% người Indonesia sinh sống ở đây], và đến thế kỷ 19 người Pháp đến Đại Nam và sau đó xâm chiếm Đông Dương. Trong khi các nước Đông Nam Á đều trở thành thuộc địa của phương Tây, thì duy nhất Xiêm La vẫn giữ được độc lập.

Đang xem: tại sao thái lan không trở thành thuộc địa

Xiêm La thực hiện chính sách mở cửa

Trong khi Đại Nam [tên của Việt Nam thời nhà Nguyễn] cùng các nước Đông Nam Á khác thực hiện chính sách đóng cửa trước sự dòm ngó của phương Tây, thì Xiêm La [tên nước cũ của Thái Lan] lại thực hiện chính sách mở cửa, quan hệ ngoại giao với phương Tây ở tất cả các lĩnh vực.

Cảng của Xiêm La vào thế kỷ 19. Ảnh: British Library.

Nước phương Tây đầu tiên và Xiêm La đặt quan hệ là Bồ Đào Nha. Năm 1511, Bồ Đào Nha xác lập việc thống trị ở Malacca, đã gặp gỡ vua Xiêm và ngỏ ý muốn đặt cây thánh giá ở quảng trường lớn, vua Xiêm đồng ý. Đồng thời thiết lập quan hệ tốt với Bồ Đào Nha, xua Xiêm cũng ngỏ ý muốn mua đại bác của Bồ Đào Nha để tấn công Miến Điện [Myanmar].

Xem thêm: Top 10 Quán Quẩy Nóng Hà Nội Cho Mùa Lạnh Thêm Ấm Nóng

Năm 1604, đến lượt người Hà Lan đến xin đặt các cơ sở buôn bán, vua Xiêm cũng đồng ý cho người Hà Lan được tự do buôn bán.

Sau đó người Anh cũng được đến tự do buôn bán. Nhưng do đến sau, người Anh bị người Hà Lan chèn ép, phải đóng cửa các thương điếm ở Xiêm La.

Năm 1662, người Anh lại đến Xiêm, đàm phán với vua Xiêm các điều khoản nhằm được tự do buôn bán và tránh bị người Hà Lan chèn ép như trước đây. Xiêm La đều vui vẻ đồng ý.

Cũng trong năm 1662, người Pháp đến Xiêm ngỏ ý muốn được tự do truyền đạo và buôn bán và được vua Xiêm chấp nhận.

Bằng chính sách ngoại giao mềm dẻo này, Xiêm La không chống lại phương Tây, mà sử dụng chính các nước phương Tây để chống lẫn nhau. Như khi thế lực Bồ Đào Nha quá mạnh, thì lại dùng Hà Lan để chống lại, đến khi Hà Lan mạnh rồi thì lại dựa vào người Anh để chống lại, v.v

Hợp tác với phương Tây trong chiến tranh

Xem thêm: Cây Hoa Hồng, Hạt Giống Hoa Hồng, Cây Giống Hoa Hồng

Năm 1819, Anh chiếm được Singapore, chuẩn bị thôn tính Malaysia và thị trường Xiêm La.

Năm 1822, Anh có cuộc đàm phán với Xiêm La, yêu cầu được tự do buôn bán với quyền tối huệ quốc, nghĩa là có được chế độ thương mại thuận lợi nhất. Phía Xiêm đề nghị Anh bán vũ khí cho mình. Cuộc đàm phán này đã đi đến Hiệp ước ngày 10/6/1822 giữa Anh và Xiêm La.

Năm 1824, trước việc Miến Điện thường xuyên tấn công Ấn Độ là thuộc địa của mình, Anh quyết định tấn công Miến Điện. Vua Xiêm là Rama III liền cho quân tới biên giới Miến Điện, định chờ cơ hội khi hai bên mệt mỏi hoặc sa lầy thì tiến qua Miến Điện thủ lợi. Tuy nhiên khi Anh đề nghị Xiêm cùng mình tấn công Miến Điện, nhận thấy cuộc tấn công này chỉ có lợi cho Anh, Xiêm La không đồng ý tiến quân.

Năm 1825, Anh cử phái đoàn đến Xiêm La xin tiếp viện đánh Miến Điện, vua Xiêm đồng ý nhưng với điều kiện là tự độc lập tấn công mà không phụ thuộc vào quân Anh.

Quân Xiêm La tấn công Miến Điện bằng đường bộ qua biên giới, quân Anh tấn công Miến Điện từ đường biển. Miến Điện hai đầu thọ địch không thể chống đỡ, vua Miến Điện Bagyido phải ký hiệp ước đầu hàng.

Theo Hiệp ước, Miến Điện phải nhường lại các địa phương vùng biển và các đảo cho Anh, đồng thời phải trả số tiền bồi thường chiến tranh là 1 triệu bảng Anh [tương đương 5 triệu đô la], đây là số tiền khổng lồ lúc bấy giờ. Trong Hiệp ước cũng ghi rõ rằng: Vua Xiêm là đồng minh rất trung thực của nước Anh sẽ được hưởng nhiều quyền lợi.

Xiêm La nhờ tham gia đánh Miến Điện mà vừa thắng được kẻ thù lâu đời trong lịch sử, lại vừa hưởng được rất nhiều các khoản lợi khác, nhờ đó mà càng thêm vững mạnh.

Năm 1826, Xiêm La ký với Anh một Hiệp ước bình đẳng về việc phân chia ảnh hưởng của mình ở bán đảo Mã Lai, nhờ đó mà được hưởng rất nhiều lợi từ quần đảo này.

Giao thương và xóa bỏ được mâu thuẫn với Mỹ

Đến năm 1833, Xiêm La ký một hiệp định thương mại với Mỹ. Mặc dù hiệp định này có vẻ mang lợi nhiều lợi ích thương mại cho Mỹ, nhưng Xiêm La lại được rất nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật như in ấn, y tế, đóng tàu, v.v

Bangkok, thế kỷ 19. Ảnh: British Library.

Đến năm 1840, đến lượt Xiêm chủ động ký tiếp một hiệp ước với Mỹ nhằm đẩy mạnh hơn nữa trao đổi thương mại giữa hai nước.

Giai đoạn này Mỹ phát triển mạnh, cần mở rộng thị trường, vì thế mà Mỹ đòi hỏi Xiêm nhiều hơn nữa. Năm 1850, Tổng thống Mỹ là Taylor đã cử Josep Barestier đến Xiêm để xem xét lại hiệp ước đã ký năm 1933.

Trong buổi gặp mặt, triều đình Xiêm La niềm nở đón nhận những ý kiến của người Mỹ, dù đó là những ý kiến rất thái quá và bất bình đẳng nhằm độc chiếm thị trường Xiêm La. Khi trở về triều đình Xiêm La mới soạn thảo một công hàm cho Josep Barestier từ chối những yêu cầu thái quá của Mỹ.

Hoàng gia Xiêm La. Ảnh: Sirinyas-thailand.de.

Trước sự từ chối của Xiêm La, Mỹ tuyên bố sẽ dùng vũ lực tấn công. Rồi đe dọa bài trừ hàng hóa Xiêm, cấm thương nhân người Xiêm đến Mỹ buôn bán, đóng cửa thông thương với Xiêm.

Phía Xiêm cũng giải thích rằng mình đã ký nhiều hiệp ước thương mại với những nước khác, vì thế nếu đồng ý với các điều khoản của Mỹ thì buộc Xiêm phải vi phạm các hiệp ước đã ký với các nước khác, điều này là không thể được.

Thấy Xiêm La không đồng ý, người Mỹ buộc phải nhượng bộ. Kỳ thực Mỹ cũng không dám dùng vũ lực hay kinh tế để tấn công Xiêm La, bởi nếu tấn công họ cũng sẽ phải đụng độ với các nước tư bản châu Âu vốn đang có nhiều lợi ích ở Xiêm La. Mặt khác Xiêm La cũng trang bị được vũ khí hiện đại của châu Âu vì thế mà không dễ gì giành được chiến thắng.

Năm 1885, Pháp cơ bản đã đánh chiếm được Đại Nam. Triều đình nhà Nguyễn phải trao cho Pháp quyền bảo hộ Campuchia. Nước Anh cũng đã có được Ấn Độ và Miến Điện. Cả Anh và Pháp lúc này đều muốn có được Xiêm La vì thế mà xảy ra mâu thuẫn. Thế nhưng nếu hai nước cùng đánh lẫn nhau thì không dễ gì thắng mà thiệt hại sẽ rất lớn, chưa kể đến việc sẽ động chạm đến lợi ích của các nước tư bản khác ở Xiêm.

Chính vì thế mà phía Pháp chủ động ngồi vào bàn đàm phán cùng Anh, hai nước cùng thống nhất hòa giải vấn đề quyền lợi ở Xiêm La, nhằm tiếp tục đảm bảo quyền lợi của mình ở đất nước này.

Với việc mở cửa giao thương, rất nhiều nước tư bản đã vào Xiêm như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp, Mỹ nhưng không một nước nào có đủ sức mạnh để chi phối Xiêm, cũng như biến Xiêm thành thuộc địa của họ.

Chính vì thế mà thời gian này, trong khi khắp thế giới nổ rộ phong trào xâm chiếm mở rộng thuộc địa, trong khi vùng Đông Nam Á hoàn toàn trở thành thuộc địa, thì riêng Xiêm La lại trở thành nơi bất khả xâm phạm, thậm chí phát triển vững mạnh hơn.

Tag: tại sao thái lan không trở thành thuộc địa

Danh mục: Hỏi đáp
Nguồn: //camnanghaiphong.vn