Tại sao phải đất văn đề sử dụng hợp lí tài nguyên khoáng sản

(Xây dựng) - Nước ta được đánh giá có nhiều lợi thế về tài nguyên khoáng sản, tuy nhiên trữ lượng hầu hết đều nằm trong danh mục hữu hạn. Công tác quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản còn nhiều bất cập, do đó, nguồn nguyên - nhiên liệu để sản xuất vật liệu ngày càng khan hiếm. Vì vậy, cần có những giải pháp căn cơ, lâu dài để vừa bảo vệ môi trường vừa khai thác sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản.

Hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập (Ảnh minh họa).

Khai thác tài nguyên khoáng sản còn nhiều bất cập

So với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, Việt Nam có những lợi thế quan trọng về tài nguyên khoáng sản. Hiện cả nước có hơn 1.000 mỏ lớn nhỏ đang được khai thác, có thể kể đến như: Than, sắt, titan, đá vôi xi măng, đá xây dựng… Tuy vậy, khi đánh giá về tiềm năng, các nhà khoa học đều cho rằng nước ta có nhiều loại tài nguyên khoáng sản nhưng trữ lượng hầu hết không nhiều đều nằm trong danh mục hữu hạn, một phần còn lại rất nhỏ có thể tái tạo.

Trong khi đó, công tác quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản lại chưa chặt chẽ nên tình trạng khai thác thiếu quy hoạch thường xảy ra. Có thể nói, việc khai thác và chế biến tài nguyên khoáng sản chưa bao giờ được tiến hành rộng rãi ở các địa phương như hiện nay. Bên cạnh việc đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, các hoạt động này làm lãng phí tài nguyên do không tận thu được hàm lượng khoáng sản hữu ích.

Các mỏ nhỏ nằm phân tán ở các địa phương không được quản lý thống nhất, đồng bộ nên tình trạng thất thoát tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường càng trầm trọng. Bên cạnh đó, việc khai thác tài nguyên khoáng sản bằng công nghệ lạc hậu còn gây tình trạng mất rừng, xói lở đất, bồi lắng và ô nhiễm sông suối, ven biển, tác hại đến sức khỏe sự an toàn tính mạng của con người và sự phát triển bền vững của đất nước.

Đồng thời, phương thức chế biến và sử dụng tài nguyên thiên nhiên cũng như tiêu dùng còn nhiều bất cập, chưa thân thiện với môi trường nên đã và đang tác động xấu đến nhiều vùng trong cả nước, đe dọa đến sự phát triển bền vững, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống trong xã hội hiện tại và tương lai.

Nhà nước đã giao cho các tập đoàn kinh tế quyền là chủ mỏ trên toàn quốc. Tuy nhiên, lâu nay ở từng địa phương vẫn tồn tại cơ chế tự phát, tức là muốn thì địa phương vẫn có thể giao cho một số doanh nghiệp “sân sau” khai thác ké doanh nghiệp Nhà nước. Từ vấn đề ranh giới mỏ Nhà nước – tư nhân, căng thẳng lại càng lên cao khi hiện tượng khai thác trái phép tài nguyên khoáng sản xuất hiện. Khoáng “tặc”, “thổ phỉ” kéo theo các hậu quả nghiêm trọng như tàn phá môi trường, làm thất thoát, lãng phí tài nguyên.

Hiện nay, đa số các khu mỏ đang khai thác hầu hết nằm ở vùng núi và trung du. Bên cạnh đó, do vốn đầu tư của các doanh nghiệp khai thác còn hạn chế, hơn nữa lại khai thác bằng phương pháp thủ công, cơ giới công nghệ lạc hậu và chạy theo lợi nhuận, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao, nên mức độ gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, phá hủy rừng, hủy hoạt mặt đất ô nhiễm nước, đất canh tác…

Mặc dù, phía cơ quan chức năng và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng đã có nhiều cố gắng nhằm giảm thiểu tác động xấu đến môi trường. Nhưng trên thực tế, do trình độ khai thác của các đơn vị còn lạc hậu, chủ yếu áp dụng phương pháp khai thác lộ thiên; thiết bị sử dụng khai thác khoáng sản của các doanh nghiệp thường là máy khoan, máy xúc, ôtô… nên đã gây ra những tác động lớn. Rõ nét nhất là môi trường trong và sau khai thác khoáng sản bị biến dạng địa mạo và cảnh quan, tiềm ẩn nguy cơ gây sạt lở…

Riêng đối với hoạt động khai thác cát sỏi làm vật liệu xây dựng, tình trạng khai thác trái phép, khai thác vượt quá công suất cho phép vẫn diễn ra gây xói lở bờ sông, ảnh hưởng môi trường và đời sống của người dân...

Điển hình, một số khai trường của Công ty Apatit Việt Nam ở Lào Cai đã khai thác nhiều năm, nhưng đến thời điểm thanh tra, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh cùng các cơ quan, đơn vị có liên quan chưa thực hiện việc cắm mốc và bàn giao mốc giới tại một số khu vực khai thác, vi phạm Luật Khoáng sản năm 2010.

Công ty vẫn khai thác quặng Apatit tại một số khai trường khi giấy phép khai thác đã hết hạn khai thác. Đặc biệt hơn, tỉnh Lào Cai cho phép Công ty TNHH Xây dựng, thương mại Lilama thực hiện dự án khách sạn, nhà hàng nhưng thực tế khai thác Apatit trái phép.

Trên thực tế, khai thác, chế biến tài nguyên khoáng sản dưới hình thức nào cũng có thể gây tổn thương và trở thành vấn đề gây bức xúc trong dư luận. Dư luận vốn nhiều chiều, các nhà kinh tế nhìn một góc độ, các nhà khoa đứng ở khía cạnh khác, trong khi các nhà quản lý lại tham luận một kiểu. Nói như một lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản thì để học được khai thác, chế biến và làm sao để đừng “đánh rơi” khoáng sản quả là không hề đơn giản. Quy mô công nghiệp có thể nâng cao về năng lực công nghệ, thiết bị, quản lý, nhưng hoạt động sản xuất, kinh doanh đã có sự gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu lợi nhuận, kinh tế với trách nhiệm bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên khoáng sản hay chưa mới là vấn đề thật sự... đau đầu.

Giải pháp nào để bảo vệ môi trường và sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản?

Để giảm bớt những bất cập trong khai thác tài nguyên khoáng sản, các chuyên gia cho rằng, các cơ quan quản lý Nhà nước cần bàn thảo để thống nhất và bảo đảm hài hòa lợi ích các bên gồm Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng.

Cùng với đó, cần sớm công khai các thông tin cơ bản về dự án khai thác khoáng sản gồm: Diện tích, thời hạn, công suất, tình trạng, giấy phép; báo cáo đánh giá tác động môi trường, thậm chí cả nguồn từ tài nguyên khoáng sản đóng góp cho địa phương nhằm bảo đảm quyền lợi cho người dân nơi có tài nguyên khoáng sản.

Đặc biệt, vấn đề minh bạch và trách nhiệm giải trình cần được nâng cao để quản lý hiệu quả hơn nguồn tài nguyên khoáng sản của đất nước.

Ngoài ra, Chính phủ cần sớm có quyết định tham gia sáng kiến minh bạch trong công nghiệp khai thác (EITI) và thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn và quy định trong EITI để giảm bất cập trong khai thác tài nguyên khoáng sản.

Kinh nghiệm từ các doanh nghiệp Nhà nước cho thấy, muốn khai thác tài nguyên khoáng sản bền vững, cần phải xác định rõ mức khai thác sản lượng bền vững (mức khai thác vừa đủ để các nguồn tài nguyên có khả năng tái sinh được) và không được phép khai thác quá sản lượng bền vững này. Kế đó, phải quản lý tốt các nguồn tài nguyên không phục hồi, sử dụng những kỹ thuật tiên tiến để giảm hao phí tài nguyên, chống nạn phế thải bừa bãi, thay đổi cách hoạt động và tiêu dùng của con người để giảm bớt sự tiêu dùng các nguồn tài nguyên này, có phương pháp tái sinh thích hợp để quay vòng sử dụng các nguồn tài nguyên không phục hồi một cách hiệu quả nhất.

Vấn đề quan trọng không kém, đó là phải tôn trọng khả năng chịu tải của hệ sinh thái: sự tác động của con người đối với trái đất tùy thuộc vào số lượng người, mức độ sử dụng, lãng phí các nguồn tài nguyên và năng lượng. Giới hạn chịu đựng của trái đất hay của một hệ sinh thái gọi là mức chịu đựng tối đa. Mọi hoạt động của con người phải tôn trọng giới hạn đó.

Link gốc:

  • Chính sách Môi trường
  • Hỏi đáp chính sách

Thứ năm, 07/10/2021 14:02 (GMT+7)

Khai thác tài nguyên khoáng sản tác động tới môi trường ra sao?

Your browser does not support the audio element. Miền BắcMiền Nam

Theo các nghiên cứu khoa học, tài nguyên khoáng sản là tích tụ vật chất dưới dạng hợp chất hoặc đơn chất trong vỏ Trái Đất. Song hoạt động khai thác và sử dụng khoáng sản đã gây ra các vấn đề tác động tới môi trường, ảnh hưởng tới sức khỏe con người.

Tài nguyên khoáng sản thường tập trung trong một khu vực gọi là mỏ khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của con người và khai thác sử dụng khoáng sản có tác động mạnh mẽ đến môi trường sống.

Theo đó, ở điều kiện hiện tại, con người có đủ khả năng khai thác các nguyên tố có ích hoặc sử dụng trực tiếp chúng trong đời sống hàng ngày.

Một mặt, khoáng sản là nguồn vật chất tạo nên các dạng vật chất có ích và của cải cho con người. Mặt khác, việc khai thác tài nguyên khoáng sản cũng thường tạo ra các loại chất ô nhiễm như bụi, kim loại nặng, các hóa chất độc và hơi khí độc (SO2, CO, CH4...).

Hoạt động khai thác và sử dụng khoáng sản gây ra các vấn đề tác động tới môi trường. (Ảnh minh họa)

Căn cứ theo dạng tồn tại, tài nguyên khoáng sản bao gồm: Rắn, khí (khí đốt, Argon, He), lỏng (Hg, dầu, nước khoáng). Theo nguồn gốc, khoáng sản được chia thành 2 loại: Khoáng sản nội sinh (sinh ra trong lòng Trái Đất) và ngoại sinh (sinh ra trên bề mặt Trái Đất).

Theo thành phần hóa học, khoáng sản bao gồm khoáng sản kim loại (kim loại đen, kim loại màu, kim loại quý hiếm), khoáng sản phi kim (vật liệu khoáng, đá quý, vật liệu xây dựng), khoáng sản cháy (than, dầu, khí đốt, đá cháy).

Tuy nhiên, do hoạt động khai thác và sử dụng khoáng sản đã gây ra các vấn đề tác động tới môi trường, ảnh hưởng tới sức khỏe con người.

Trong đó, hậu quả nghiêm trọng nhất là làm mất đất, mất rừng, ô nhiễm nước, ô nhiễm bụi, khí độc, lãng phí tài nguyên. Quá trình vận chuyển, chế biến khoáng sản gây ô nhiễm bụi, khí, nước và chất thải rắn. Đồng thời, sử dụng khoáng sản sẽ gây ra ô nhiễm không khí (SO2, bụi, khí độc...) và ô nhiễm nguồn nước.

Do đó, hoạt động bảo vệ tài nguyên và môi trường trong khai thác và sử dụng khoáng sản Việt Nam đòi hỏi phải quan tâm đến các khía cạnh sau:

Thứ nhất, phải hạn chế tổn thất tài nguyên và tác động tiêu cực đến môi trường trong quá trình thăm dò, khai thác, chế biến.

Thứ hai, điều tra chi tiết, quy hoạch khai thác và chế biến khoáng sản, không xuất thô các loại nguyên liệu khoáng, tăng cường tinh chế và tuyển luyện khoáng sản.

Thứ ba, cần đầu tư kinh phí xử lý chất ô nhiễm phát sinh trong quá trình khai thác và sử dụng khoáng sản như xử lý chống bụi, chống độc, xử lý nước thải, quy hoạch xây dựng các bãi thải.

Với tiềm năng khoáng sản quan trọng, chiến lược, quy mô lớn trên toàn quốc, Việt Nam thuộc nhóm có trữ lượng và tài nguyên bauxit, titan và urani lớn nhất thế giới.

Theo Bộ TN&MT, tính đến năm 2020, cả nước đã khoanh định 48 khu vực cho 10 loại khoáng sản là khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia; Trong đó, titan chiếm tỉ lệ cao nhất là 23 khu vực, với tổng số diện tích là 1.140 km2, phân bố chủ yếu tại các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận và Bà Rịa - Vũng Tàu.

Tiếp đó là than nâu, than antraxit với 6 khu vực có diện tích 1.456 km2, trữ lượng 40,732 tỉ tấn; 4 khu vực cát trắng có trữ lượng 1,1 tỉ tấn; 3 khu vực bauxite, trữ lượng 917 triệu tấn; 3 khu vực apatit với diện tích 332 km2, có trữ lượng 1,6 tỉ tấn quặng apatit loại IV. Các khu vực dự trữ khoáng sản còn lại như đá trắng, đất hiếm, chì - kẽm, quặng cromit có trữ lượng không lớn được khoanh định do nằm trong các khu vực có công trình văn hóa, khu vực bảo tồn, khu vực rừng đặc dụng,…

Lan Anh (T/h)

  • Yêu cầu xử lý nghiêm vi phạm khai thác, tập kết khoáng sản
  • Hàng loạt doanh nghiệp bị xử phạt vì vi phạm khai thác khoáng sản ở Lâm Đồng
  • Giải pháp nào để hạn chế ô nhiễm môi trường nước?
  • Thế nào là ô nhiễm môi trường đất?

Bạn đang đọc bài viết Khai thác tài nguyên khoáng sản tác động tới môi trường ra sao?. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0917 681 188 Hoặc email:

  • khai thác khoáng sản
  • ô nhiễm môi trường
  • chất ô nhiễm

Video liên quan

Chủ đề