Việt Nam và Hàn Quốc: Những điểm gặp gỡ trong quỹ đạo lịch sử19/03/2020 07:15 - Hồ Tài Huệ Tâm Show Nhìn vào lịch sử từ thời kỳ xây dựng nhà nước độc lập tự chủ đầu tiên cho đến cận đại thì Việt Nam chia sẻ rất nhiều điểm chung về văn hóa, tư tưởng với các nước Đông Á. Phân tích của GS sử học Hồ Tài Huệ Tâm (ĐH Harvard) về đối sánh Việt Nam với Hàn Quốc dưới đây cho thấy, dù cách núi ngăn sông nhưng quỹ đạo lịch sử của hai nước có rất nhiều điểm gặp gỡ.
Năm 1597, khi đi sứ Trung Quốc, Phùng Khắc Khoan (1528-1613) đã có một cuộc trao đổi thơ văn với sứ thần Hàn Quốc Lý Túy Quang [Yi Su Gwang] (1563-1628). Ông viết trong một bài thơ: “Bỉ thử tuy thù sơn hải vực. Uyên nguyên đồng nhất thánh hiền thư" [tôi - ông tuy rằng sông núi khác, nguồn chung cùng một sách thánh hiền]”. Nguồn ông nói đến là Trung Quốc và sách vở thánh hiền là Nho giáo (Tống Nho).
Nhưng chữ Nôm, cũng như các chữ viết dân tộc vẫn bị giới hạn chỉ trong thơ và tiểu thuyết, vốn bị coi là văn chương giải trí không nghiêm túc, cho đến khi chúng được các nhà cải cách như Lương Khải Siêu cổ động vì giá trị trong xây dựng nhận thức về chủ nghĩa dân tộc (như bài viết của ông năm 1902: “Luận về quan hệ giữa tiểu thuyết với quản trị xã hội”/論小說與群治之關係). Chữ Hán vẫn là ngôn ngữ viết của giới tinh hoa Hàn Quốc và Việt Nam cho đến thế kỷ XX vì đây là ngôn ngữ của hệ thống giáo dục và cụ thể hơn là các kỳ thi tuyển chọn quan lại. Các kỳ thi này đã tồn tại cho đến khi bị bãi bỏ vào năm 1894 tại Hàn Quốc, ở Trung Quốc gần một thập kỷ sau, trong khi duy trì ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam cho tới năm 1915. Nho giáo Như tôi đã viết, cả Lê Thánh Tông và Sejong đều có ảnh hưởng tới sự phát triển của Tống Nho tại Triều Tiên và Đại Việt. Trước tiên, hãy cùng nhìn lại lịch sử một cách khái lược. Mặc dù tách biệt về mặt địa lý, nhưng quỹ đạo lịch sử của Hàn Quốc và Đại Việt trong lịch sử trung đại và cận hiện đại có những điểm tương đồng ấn tượng. Vương triều Goryeo [Cao Ly] được thành lập vào năm 918, sau khi triều đại nhà Đường kết thúc vào năm 907. Đây cũng là lúc người Việt Nam tìm cách thoát khỏi ách Bắc Thuộc, và mất vài thập kỷ để ổn định với sự thành lập triều đại Lý vào năm 1009. Triều đại đó đã được nhà Trần tiếp tục nắm quyền cho đến năm 1400, trong khi Vương triều Goryeo bị nhà Choson [Triều Tiên] phế truất vào năm 1392. Trích tranh “Văn quan vinh quy đồ” (đền Độc Lôi, Nghệ An) hiện trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Dưới thời nhà Đường, tôn giáo chủ yếu ở Hàn Quốc, Việt Nam cũng như Trung Hoa là Phật giáo. Phật giáo đến Giao Chỉ đầu tiên dưới thời cai trị của Sĩ Nhiếp. Nhà sư Khương Tăng Hội (mất năm 280 SCN) sinh ở Luy Lâu được cho là người đầu tiên truyền bá giáo lý Phật giáo vào Trung Quốc. Phật giáo sau đó đến Hàn Quốc vào năm 338 SCN, hơn một thế kỷ sau khi xuất hiện ở Giao Chỉ. Bắt đầu từ thế kỷ thứ VIII, các nhà Nho tại Trung Quốc nỗ lực tái khẳng định uy quyền của mình – đầu tiên là với Hàn Dũ (năm 715) và sau đó là một loạt các biện pháp trấn áp Phật giáo trong thế kỷ tiếp theo. Đến thế kỷ XI, Tam giáo kết hợp các yếu tố của Đạo giáo, Phật giáo và Nho giáo đã chiếm ưu thế ở Trung Quốc và đã mở đường cho tư tưởng Tân Nho giáo – còn gọi là Tống Nho. Các biện pháp trấn áp Phật giáo ở Trung Quốc đã có tác dụng đẩy nhiều nhà sư đến Việt Nam, do đó dưới triều đại Lý và Trần (1009-1400), Phật giáo duy trì vị thế quốc giáo. Nhưng cũng vào năm 1070, đền thờ Khổng Tử được xây dựng ở Thăng Long, nối tiếp bởi việc thành lập Quốc Tử Giám. Ở Hàn Quốc, dưới triều đại Cao Ly (918-1392), hệ thống khoa cử được thiết lập ra dưới thời vua Gwangong [Cao Tông] (949-975) và trường Gukjagam được thành lập dưới triều vua Seongjong [Thành Tông] (1083-1094), do đó gần như song song với sự phát triển ở Việt Nam. Nhưng từ đây, lịch sử hai vương quốc bắt đầu có những dị biệt. Năm 1392, triều Goryeo bị thay thế bởi nhà Choson. Triều đại mới được thành lập bởi các thành phần thân Minh trong khi phái đối nghịch lại ủng hộ duy trì liên kết với nhà Nguyên. Tại Việt Nam, nhà Trần dù đánh thắng ba cuộc xâm lược của nhà Nguyên vào thế kỷ thứ XIII, sau đó đã bị suy yếu nghiêm trọng [vào cuối thế kỷ XIV]. Hồ Quý Ly đã phế truất các vua Trần vào năm 1400, tạo tiền đề khiến Đại Việt bị nhà Minh xâm lược và chiếm đóng từ năm 1407 đến 1428. Do đó, khác với nhà Triều Tiên, nhà Lê ra đời với cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của Lê Lợi. Tuy nhiên, nhiều điểm tương đồng thú vị có thể rút ra từ sự nghiệp của vua Triều Tiên Thế Tông [Sejong] (sinh năm 1398, trị vì 1418-1450) và của Lê Thánh Tông (sinh năm 1442, trị vì 1460-1497). Cùng là hai nhân vật có ảnh hưởng rất lớn trong thời đại này, họ đã trị vì trong một thời gian dài: Sejong 32 năm, Lê Thánh Tông 37 năm. Sejong lên ngôi vương vào năm 1418 ở tuổi 22, khi triều đại vẫn còn non trẻ. Trong 32 năm trị vì của mình, ông đã củng cố quyền lực nhà nước bằng cách đưa Tống Nho thành hệ tư tưởng chính thống. Cụ thể, ông tiếp thu ảnh hưởng của các nguyên tắc Tống Nho về nhân nghĩa, theo đuổi tri thức và cải thiện xã hội. Lê Thánh Tông thậm chí còn trẻ hơn Sejong khi ông lên ngôi hoàng đế (17 tuổi). Ông cũng nắm quyền trong hoàn cảnh bấp bênh hơn nhiều: khác với triều Choson, 20 năm cai trị kéo dài của nhà Minh đã phá hủy mọi tài liệu dùng làm cơ sở để một triều đại ngoại tộc mới lên như triều Lê có thể cai trị đất nước. Hệ quả ngược kéo theo là sau khi giành được sự ổn định, triều Lê Thánh Tông lại trở nên phụ thuộc hơn bao giờ hết vào mô hình Trung Hoa. Mặt khác, Lê Thánh Tông cũng phải trung hòa giữa quyền lợi của giới quân sự muốn có quyền lợi cát cứ với một triều đình trung ương tập quyền và thống nhất. Mặt khác, sau khi tiến đánh Champa và thâu nạp thêm lãnh thổ mới vào đế chế của mình, ông cần xây dựng một bộ máy hành chính hiệu quả. Bộ luật Hồng Đức không chỉ cung cấp một kế hoạch chi tiết về cách thức quản trị, nó còn có các hướng dẫn chi tiết về ứng xử hằng ngày trong xã hội. Những chỉ dẫn này nhằm vào cả người Việt và nhóm người Champa mới bị khuất phục. Trích tranh "Hưởng Yến đồ" mô tả tiệc mừng Quan Giám ty đạo Bình An trên sông Taedong (Bình Nhưỡng ngày nay). Tranh Kim Hongdo (khoảng 1745-1806). Nguồn tranh: Bảo tàng Lịch sử Hàn Quốc. Ta thấy, cả Sejong và Lê Thánh Tông đều sử dụng các nguyên tắc chính trị của Nho giáo và dựa vào hệ thống tuyển chọn quan lại làm phương thức để đảm bảo vận hành bộ máy. Điều này củng cố tầm quan trọng của tầng lớp trí thức, được gọi là Yangban [lưỡng ban] ở Hàn Quốc và Sĩ phu ở Việt Nam. Tân Nho giáo Chúng ta cũng cần tránh đẩy đối sánh lịch sử đi quá xa. Lịch sử của Triều Tiên và Việt Nam cũng đi theo những quỹ đạo khác nhau vốn cũng ảnh hưởng lên sự phát triển Nho giáo của cả hai nước. Do đó tôi muốn đề cập tới một số khác biệt cơ bản giữa Nho giáo Hàn Quốc và Việt Nam.
Ưu tiên hàng đầu của nhà Nguyễn sau khi thống nhất đất nước là khôi phục sản xuất nông nghiệp ở phía Bắc, nơi diễn ra hầu hết các cuộc giao tranh. Ngoài ra, nhu cầu nhân viên cho một bộ máy hành chính mở rộng đã thu hút hầu hết những người có học thức. Không còn không gian xã hội cho các học giả độc lập như Cao Bá Quát hay cho các cộng đồng trí thức đa dạng phát triển. Thu Quỳnh – Tuấn Quang dịch
Tags:
Việt Nam
Hàn Quốc
lịch sử
văn hóa
Đông Nam Á
Hồ Tài Huệ Tâm
TTO - Một sử gia Hàn Quốc nhận định Việt Nam và Hàn Quốc là ‘anh em máu mủ’ vì có nhiều điểm tương đồng về mặt nguồn gốc từ cách đây hàng ngàn năm.
Nhà sử học Shim Baek Kang - chủ tịch Trung tâm nghiên cứu văn hóa quốc gia Hàn Quốc - Ảnh: KOREA TIMES Trong một cuộc phỏng vấn đăng trên báo Korea Times của Hàn Quốc ngày 28-3, nhà sử học Shim Baek Kang - chủ tịch Trung tâm nghiên cứu văn hóa quốc gia Hàn Quốc ở Seoul - nhận định Việt Nam và Hàn Quốc là anh em máu mủ vì có cùng nguồn gốc từ một bộ lạc xa xưa. Nhà sử học Shim Baek Kang đưa ra kết luận này dựa trên những điểm tương đồng trong các tài liệu lịch sử và Hán tự cổ. Ông cho rằng trong Đại Việt sử ký toàn thư của nhà sử học Việt Nam Ngô Sĩ Liên, Văn Lang được chép là nhà nước đầu tiên của Việt Nam trong lịch sử, được cai trị bởi các vua Hùng, có tất cả 18 đời vua đều gọi là Hùng Vương. Lạc Long Quân là cha của Hùng Vương đời thứ nhất - người thống nhất thành công 15 bộ lạc để lập ra nhà nước Văn Lang. Điều đó cho thấy Việt Nam có nguồn gốc từ bộ lạc Lạc hay Maek (Hán tự cổ của "Lạc" có nghĩa là "Maek" trong tiếng Hàn). Trong khi đó, các tài liệu cũng từng chép Hàn Quốc có nguồn gốc từ bộ lạc Maek. Một bản sao của Đại Việt sử ký toàn thư của nhà sử học Ngô Sĩ Liên - Ảnh: KOREA TIMES Theo ông Shim Baek Kang, một phát hiện khác là có nhiều điểm tương đồng giữa hai nhà nước đầu tiên ở hai quốc gia - nhà nước Văn Lang của Việt Nam (2879 - 258 TCN) và Gojoseon (Cổ Triều Tiên, từ năm 2333 - 100 TCN) trên bán đảo Triều Tiên. Cả hai nhà nước đều có tất cả 18 đời vua và kéo dài trong 2.000 năm. Hơn nữa, có sự giống nhau về mặt Hán tự. Theo đó, cha của vị vua đầu tiên của vương quốc cổ Gojoseon - HwanUng (桓雄, Hoàn Hùng) - có sự giống nhau ở chữ "Hùng" với các vua Hùng của nhà nước Văn Lang. Về mặt Hán tự, HwanUng (Hoàn Hùng) và Hùng Vương đều có chung chữ "Hùng" (雄) - Ảnh: KOREA TIMES Bộ lạc Maek có từ khoảng năm 5.000 trước CN ở vùng Hồng Sơn, Xích Phong tọa lạc ở khu tự trị Nội Mông, Trung Quốc ngày nay. Vào năm 1908, các nhà khảo cổ bắt đầu khai quật tàn tích của một nền văn minh cổ, trong đó có một ngôi mộ hoàng tộc, tế đàn và từ đường, cho thấy một nền văn minh ra đời sớm hơn cả bộ lạc Hán của Trung Hoa khoảng 2.000 năm. Phát hiện này đặt nền tảng cho tiền đề rằng bộ lạc Maek là bộ lạc đầu tiên và cổ nhất, đồng thời là nguồn gốc của các bộ lạc sau đó. Một số tài liệu đã đề cập người Hàn Quốc có nguồn gốc từ bộ lạc Maek. Vương quốc cổ Gojoseon (Cổ Triều Tiên) cũng được gọi là Bal Joseon, trong đó "Bal" được dùng để thay thế cho "Maek". Theo Sơn Hải Kinh (tên tiếng Anh: Classic of Mountains and Rivers) - tập sách địa lý lâu đời nhất ở Đông Á, Buyeo hay Phù Dư (vương quốc cổ xuất hiện 1 thế kỷ trước khi Gojoseon sụp đổ) cũng có sự xuất hiện của một bộ lạc Maek. Bộ lạc Maek được biết tới với văn hóa thờ mặt trời, với các vật tổ và biểu tượng chim. Tại một số di tích lịch sử của Việt Nam, hình ảnh con chim Lạc vẫn được tìm thấy. Theo báo Korea Times, nhiều quốc gia vẫn xem truyền thuyết Hwanung (Hoàn Hùng) và Lạc Long Quân là những câu chuyện mang tính tưởng tượng. Tuy nhiên, những phân tích của sử gia Shim Baek Kang phần nào cho thấy những điểm tương đồng về mặt lịch sử giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Phân tích của nhà sử học Shim nhận được sự chú ý trong bối cảnh mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc ngày càng thắt chặt ở nhiều mặt từ ngoại giao cho tới thương mại và văn hóa. Theo Korea Times, Việt Nam hiện là một người bạn và là đối tác quan trọng của Hàn Quốc. Nam Bắc Hàn và Cuộc chiến Việt NamNguồn hình ảnh, Chung Sung-Jun/Getty Images Chụp lại hình ảnh, Tân Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in (bìa trái) trong Lễ Tưởng niệm Chiến tranh hôm 06/06/2017: phát biểu 'ghi công' quân đội Hàn Quốc trong các cuộc chiến ở nước ngoài đã gây phản ứng từ Hà Nội Bộ Ngoại giao Việt Nam, qua lời nữ phát ngôn viên Lê Thu Hằng hôm 09/06, đã đề nghị Chính phủ Hàn Quốc "không có các hành động và phát ngôn gây tổn thương tới tình cảm của nhân dân Việt Nam". Tân Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in hôm 6/6 đã phát biểu vinh danh 'người Hàn Quốc có công' tham chiến tại nước ngoài, gồm chiến tranh Việt Nam. Hà Nội luôn nêu rõ rằng "Việt Nam mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, trong đó có Hàn Quốc". Nhưng di sản cuộc chiến vẫn gợi lại thời bốn nước: Hàn Quốc, Triều Tiên, Nam và Bắc Việt Nam đứng hai lằn ranh ý thức hệ thù địch trong Chiến tranh Lạnh. Lịch sử và văn hoá Hàn Quốc (So sánh với Việt Nam)Posted on 27/08/2016 by Lê Văn Hỷ Lịch sử và văn hoá Hàn Quốc (So sánh với Việt Nam) Lê Văn HỷLịch sử cổ trung đại châu Âu – những nét đặc thù Lịch sử văn minh Mỹ theo cách lý giải của các học thuyết về lịch sử và văn hoá của các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ học. |