Nhìn mặt mà bắt hình dong là phương pháp luận gì

Trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ của chúng ta, có những người, những sự vật, sự việc nhìn vậy nhưng lại không giống như chúng ta nghĩ. Tuy nhiên vẫn có nhiều người thường có thói quen đánh giá một con người thông qua vẻ bề ngoài dù chỉ là lướt qua nhau trên đường. Nhiều người cho rằng đó là những cái nhìn phiến diện như câu tục ngữ của ông bà ta từ xưa “Trông mặt mà bắt hình dong”. Hãy cùng bài viết dưới đây tìm hiểu vì sao mà chúng ta thường đánh giá ngưới khác qua vẻ bề ngoài và có nên suy nghĩ như thế không?

Nhìn mặt mà bắt hình dong là phương pháp luận gì

Ý nghĩa câu “Trông mặt mà bắt hình dong”

Câu tục ngữ “Trông mặt mà bắt hình dong” muốn chỉ những người thường vội vàng đánh giá người đối diện qua vẻ bề ngoài trong lần gặp mặt đầu tiên, thậm chỉ là chỉ lướt qua nhau trong siêu thị hay cửa hàng tiện lợi. Đây thực sự là một việc không hề tốt, bởi vì lòng người rất khó đoán, muốn hiểu một người thì cần rất nhiều thời gian để tiếp xúc kèm theo cả những yếu tố khác nữa. Bên cạnh đó, còn ngụ ý muốn nhắc nhở chúng ta đừng nên vì vẻ bề ngoài của một người mà lại vội vàng quy chụp hay đánh giá là người tốt hay kẻ xấu. 

Có những người được trời sinh có vẻ ngoài vô cùng xinh đẹp ai nhìn cũng thích nhưng lòng dạ lại hẹp hòi, hay mỉa mai, đay nghiến người khác. Trái lại, có những người tuy ngoại hình xấu xí tầm thường nhưng lại có một tấm lòng tốt bụng và nhân hậu, luôn biết giúp đỡ người khác. Có người luôn ăn mặc sạch sẽ, người thơm phức mùi nước hoa, thoạt nhìn có vẻ là người rất lịch sự và nghiêm chỉnh nhưng thật ra lại vô ý thức vứt rác không đúng nơi quy định. Hoặc có những người trong lòng luôn toan tính, âm mưu muốn lừa gạt người khác nhưng mặt thì lúc nào cũng tươi cười, miệng thì nói đạo lí. Bạn thấy đó có quá nhiều minh chứng để chúng ta tin rằng việc “Trông mặt mà bắt hình dong” là không nên trong một số trường hợp.

Nhìn mặt mà bắt hình dong là phương pháp luận gì

Người xưa có rất nhiều câu ca dao về việc “Trông mặt mà bắt hình dong”, nhìn qua ngũ quan để đánh giá về một người nào đó hay còn gọi là xem tướng số. Nào là “Đàn ông rộng miệng thì sang/ Đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà”, theo quan niệm xưa đàn ông ăn to nói lớn, trán cao miệng rộng là tốt tướng, còn đàn bà miệng rộng thì ăn nhiều nói lắm tan hoang cửa nhà. Nhưng ở thời điểm bây giờ, người ta không còn quan tâm đến quan niệm đó nữa, đàn ông miệng rộng thì bị chê bai, còn đàn bà miệng rộng đang là xu hướng. Vì thế mà việc đánh giá người khác qua tướng mạo bên ngoài thì không thể áp dụng cho tất cả mọi người.

Vậy đừng nên trông mặt mà bắt hình dong

Để hiểu được một ai đó thật khó biết bao, nhìn có vẻ đơn giản nhưng thật ra rất phức tạp. Cuộc sống xã hội ngày nay ngày càng nhiều chiều, tâm lý, tính cách con người càng khó nắm bắt. Dẫu những kinh nghiệm dân gian có câu, có lúc còn chưa đúng hoàn toàn, đúng chỗ này, lúc này không đúng thì đúng lúc khác, nhưng nó chỉ mãi là một lời nhắc nhở, mách bảo cho ta biết nên chọn mặt gửi vàng, gửi gắm lòng tin. Tạo hóa không tạo ra con người xấu hay tốt, mà chính cuộc sống hiện đại ngày nay đã làm cho con người chúng ta biến đi những tính cách tốt đẹp vốn có của mình.

Lòng người là thứ khó đoán nhất trên đời này, muốn tin cũng không dam tin. Chắc hẳn ai trong đời này cũng chứng kiến nhiều trường hợp như vậy. Có những điều do chính mình nghe, mình thấy mà đến cuối cùng còn không phải là sự thật nữa thì việc “Trông mặt mà bắt hình dong” thì quá là phiến diện. Chúng ta cứ từ từ trải qua nhiều chuyện rồi cảm nhận, xem xét và đánh giá cũng không muộn, gấp gáp chỉ làm hại cho bản thân bạn mà thôi. Xã hội bây giờ người tốt kẻ xấu lẫn lộn không biết đâu mà lần. Chúng ta cần cẩn thận để bảo vệ bản thân mình trước cám dỗ mà cũng không làm hại đến ai. Mọi chuyện cần được tìm hiểu kỹ lưỡng, hay có thể xin ý kiến từ người thân, bạn bè thân thuộc rồi hãy đưa ra quyết định. Đừng quá vội tin người để mang phần thiệt về mình mà còn có thể gây phiền toái thêm cho những người bên cạnh mình nữa.

Từ ngày xưa, ông bà đã dạy cho chúng ta biết “Trông mặt mà bắt hình dong” sẽ có nhiều hậu quả đáng tiếc, nhất là thời nay đừng nên áp dụng việc này để nhận xét người nào đó. Bây giờ, kẻ giả danh tri thức, văn minh nhưng bên trong thế nào chúng ta còn chưa biết được. Người thân cận ngay bên cạnh còn có thể phản bội nhau, huống chi là người xa lạ. Thế giới ngoài kia, nguy hiểm luôn rình rập chúng ta không thể ngây thơ mãi được, hãy khôn ngoan và chủ động để tự bảo vệ mình. Hãy tỉnh táo và tìm hiểu rồi thực hiện việc muốn làm đừng để mắc bẫy của kẻ xấu.

Đạo lý là như thế nhưng cuộc sống bây giờ thì vẻ bề ngoài có vai trò cũng khá quan trọng. Bạn không thể công ty phỏng vấn với một vẻ ngoài quá cẩu thả, xuề xòa. Bạn cũng không thể đi dự tiệc với một bộ đồ ngủ. Sẽ có nhiều người trong những người mà ta gặp gỡ sẽ không vì thấy chúng ta không xinh đẹp hay ăn mặc có vẻ quê mùa mà đánh giá thấp. Tuy nhiên, chúng ta rất nên trau chuốt cho vẻ bề ngoài của mình để phù hợp với hoàn cảnh mà mình sẽ xuất hiện. Đồng thời, cũng cần trang bị cho bản thân một nhân cách tốt, vừa xinh đẹp vừa tốt tính thì chắc chắn sẽ được người đối diện đánh giá rất cao.

Mặc dù câu tục ngữ “Trông mặt mà bắt hình dong” là sự đúc kết kinh nghiệm của ông cha ta trải qua nhiều đời nay, giúp ích cho ta rất nhiều trong công việc và cuộc sống, nhưng để đánh giá một con người chỉ qua vẻ bề ngoài thì không đủ cơ sở để tin cậy. Vội vàng sẽ dẫn đến sơ suất gây thêm cho mình sai lầm và phiền phức. Và mỗi con người sẽ có rất nhiều bộ mặt khác nhau và thời gian có lẽ là thước đo chính xác nhất cũng như công bằng nhất để ta bóc tách và đánh giá nhân cách của một người. 

Thành ngữ là một tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích đơn giản bằng nghĩa của các từ cấu tạo nên nó. Thành ngữ được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói cũng như sáng tác thơ ca văn học tiếng Việt. Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao.

Việc nói thành ngữ là một tập hợp từ cố định có nghĩa là thành ngữ không tạo thành câu hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp, cũng không thể thay thế và sửa đổi về mặt ngôn từ. Thành ngữ thường bị nhầm lẫn với tục ngữ và quán ngữ. Trong khi tục ngữ là một câu nói hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý nhằm nhận xét quan hệ xã hội, truyền đạt kinh nghiệm sống, hay phê phán sự việc, hiện tượng. Một câu tục ngữ có thể được coi là một tác phẩm văn học khá hoàn chỉnh vì nó mang trong mình cả ba chức năng cơ bản của văn học là chức năng nhận thức, và chức năng thẩm mỹ, cũng như chức năng giáo dục. Còn quán ngữ là tổ hợp từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành.

Định nghĩa - Khái niệm

trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon có ý nghĩa là gì?

Dưới đây sẽ giải thích ý nghĩa của câu trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon trong tiếng Việt của chúng ta mà có thể bạn chưa nắm được. Và giải thích cách dùng từ trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon trong Thành ngữ Tiếng Việt. Sau khi đọc xong nội dung này chắc chắn bạn sẽ biết từ trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon nghĩa là gì.

Xem tướng người mà đối xử cách trọng hay khinh
  • ngọt lọt đến xương là gì?
  • bán thần buôn thánh là gì?
  • no mất ngon, giận mất khôn là gì?
  • ngọt như đường phèn là gì?
  • dựa hơi hùm, vểnh râu cáo là gì?
  • nhiều áo thì ấm, nhiều người thì vui là gì?
  • ai ăn mặn, nấy khát nước là gì?
  • một đêm nằm, một năm ở là gì?

Tóm lại nội dung ý nghĩa của câu "trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon" trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt

trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon có nghĩa là: Xem tướng người mà đối xử cách trọng hay khinh

Đây là cách dùng câu trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon. Thực chất, "trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon" là một câu trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt được cập nhập mới nhất năm 2022.

Kết luận

Hôm nay bạn đã học được thành ngữ trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon là gì? với Từ Điển Số rồi phải không? Hãy truy cập tudienso.com để tra cứu thông tin các thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh, Trung, Nhật, Hàn...liên tục được cập nhập. Từ Điển Số là một website giải thích ý nghĩa từ điển chuyên ngành thường dùng cho các ngôn ngữ chính trên thế giới.

Bản chất và hiện tượng là cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lenin[1][2][3] và là một trong những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng giữa cái Bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật với Hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của bản chất. Nội dung về cặp phạm trù này đã được đưa vào chương trình giảng dạy của một số khối trường Đại học ở Việt Nam theo Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo[4].

Mục lục

  • 1 Quan điểm
  • 2 Mối liên hệ
    • 2.1 Sự thống nhất
    • 2.2 Tính mâu thuẫn
  • 3 Phương pháp luận
  • 4 Tham khảo
  • 5 Xem thêm
  • 6 Chú thích

Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung, nhưng không đồng nhất với cái chung. Có cái chung là bản chất, nhưng có cái chung không phải là bản chất. Phạm trù bản chất và phạm trù quy luật là cùng loại, hay cùng một bậc. Tuy nhiên bản chất và quy luật không đồng nhất với nhau. Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện một mặt, một khía cạnh nhất định của bản chất. Bản chất là tổng hợp của nhiều quy luật. Vì vậy phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú hơn quy luật[5].

Bản chất và hiện tượng đều tồn tại một cách khách quan. Theo chủ nghĩa Marx-Lenin thì quan điểm duy tâm không thừa nhận hoặc không hiểu đúng sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng, họ cho rằng, bản chất không tồn tại thật sự, bản chất chỉ là tên gọi trống rỗng do con người bịa đặt ra, còn hiện tượng dù có tồn tại nhưng đó chỉ là tổng hợp những cảm giác của con người, chỉ tồn tại trong chủ quan con người. Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan tuy thừa nhận sự tồn tại thực sự của bản chất nhưng đó không phải là của bản thân sự vật mà theo họ đó chỉ là những thực thể tinh thần[5].

Chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học Marx-Lenin cho rằng, cả bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan là cái vốn có của sự vật không do ai sáng tạo ra, bởi vì sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Những yếu tố này liên kết với nhau bằng những mối liên hệ khách quan, đan xen, chằng chịt. Trong đó có những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định. Những mối liên hệ tất nhiên đó tạo thành bản chất của sự vật. Vậy, bản chất là cái tồn tại khách quan gắn liền với sự vật còn hiện tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất, cũng là cái khách quan không phải do cảm giác của chủ quan con người quyết định.

Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này mà người ta có thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện tượng bên ngoài. Biểu hiện là:

Bản chất luôn luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng; đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất. Nhấn mạnh sự thống nhất này

Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất
— Lenin[6]

Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo.

Tính mâu thuẫnSửa đổi

Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn mà luôn bao hàm cả sự mâu thuẫn nhau[7].

Nếu hiện tượng và bản chất của sự vật là nhất trí với nhau thì tất thảy khoa học sẽ trở nên thừa
— Các Mác[8]

Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ:

  • Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật trong khi hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt.
  • Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan, còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản chất không được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau.
  • Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi, nhiều khi xuyên tạc bản chất hoặc phản ánh không đúng bản chất[9] [ví dụ: Hiện tượng khúc xạ, ảo ảnh].

Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tùy theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.

Cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất, không bám "chắc", không "ngồi vững" bằng "bản chất"
— V.I.Lenin[6]

Muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những sự vật, hiện tượng, quá trình thực tế vì lẽ rằng bản chất không tồn tại thuần túy mà tồn tại trong sự vật và biểu hiện qua hiện tượng. Bản chất của sự vật không được biểu hiện đầy đủ trong một hiện tượng nhất định nào và cũng biến đổi trong quá trình phát triển của sự vật. Do vậy phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện tượng điển hình mới hiểu rõ được bản chất của sự vật. Nhận thức bản chất của sự vật là một quá trình phức tạp đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn[10].

Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể nói như vậy, đến bản chất cấp hai, v.v., cứ như thế mãi
— V.I.Lenin[6]

Trong nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được bản chất của sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào hiện tượng vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự vận động phát triển của sự vật.

Vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự vận động phát triển của sự vật. Do vậy nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được bản chất của sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào hiện tượng hay xuyên tạc bản chất[11].

  • Giáo trình Triết học Mác - Lê nin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
  • Giáo trình Triết học Mác – Lê nin, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2004
  • Nhập môn Marx, Rius [Eduardo del Rio], người dịch: Nguyễn Hà, hiệu đính: Bùi Văn Nam Sơn, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006
  • Một số vấn đề Triết học Mác – Lenin: Lý luận và thực tiễn [tái bản có bổ sung], Lê Doãn Tá, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2003
  • Triết học Mác – Lenin [tập II], Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1994 [xuất bản lần thứ ba]
  • Triết học Mác – Lenin [tập III], Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1994 [xuất bản lần thứ ba]
  • Triết học Mác – Lenin [tập II], Vụ Công tác Chính trị - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 1996
  • Chính trị, Bộ Giáo dục và Đào tạo – Chủ biên: Lê Thế Lạng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2004 [tái bản có bổ sung, sửa chữa]
  • Cái chung và cái riêng
  • Nguyên nhân và kết quả
  • Tất nhiên và ngẫu nhiên
  • Khả năng và hiện thực
  • Nội dung và hình thức

  1. ^ Giáo trình Trung cấp lý luận chính trị-hành chính: Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 13/03/2014, trang 15-16, trang 26-27
  2. ^ “Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2015.
  3. ^ Bản chất và hiện tượng
  4. ^ Quyết định số 45/2002/QĐ-BGDĐT ngày 29 tháng 10 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
  5. ^ a b “Về sự tương quan giữa các cặp phạm trù cơ bản của Phép biện chứng duy vật”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2015. Truy cập 9 tháng 10 năm 2015.
  6. ^ a b c V.I.Lenin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva, năm 1981, tập 29, trang 268
  7. ^ “Chu nghia Mac”. Truy cập 9 tháng 10 năm 2015.
  8. ^ C. Mác: Tư bản, quyển III, tập III, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1963, trang 281
  9. ^ Bản chất và hiện tượng
  10. ^ “Bản sao đã lưu trữ” [PDF]. Bản gốc [PDF] lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2015.
  11. ^ //www.tuyengiao.vn/Home/Bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-Dang/80266/Thoi-phong-nhung-hien-tuong-ca-biet-de-xuyen-tac-ban-chat