Lý thuyết quản trị khoa học là gì

Full PDF PackageDownload Full PDF Package

This Paper

A short summary of this paper

36 Full PDFs related to this paper

Download

PDF Pack

Mục lục bài viết

  • 1. Nội dung và bối cảnh
  • 2. Định nghĩa thuyết quản lý theo khoa học
  • 3. Ảnh hưởng lớn nhất tới nền kinh tế
  • 4. Cách tiếp cận chung và sự đóng góp
  • 5. Phương pháp sản xuất hàng loạt
  • 6. Quan điểm của trường phái
  • 7. Những người tiếp bước Taylor
  • 8. Đánh giá tư tưởng của Taylor

Trả lời:

Quản lý theo khoa học (còn được gọi là Chủ nghĩa Taylor– Taylorism, Luật phối hợp cổ điển - Classical Perspective) là lý thuyết quản lý dựa trên quá trình phân tích, tổng hợp các quy trình công việc nhằm nâng cao năng suất lao động (hợp lý hóa lao động). Những ý tưởng cốt lõi của lý thuyết được phát triển trong thập niên 1890 bởi Frederick Winslow Taylor, ông tin rằng các quyết định dựa trên kinh nghiệm truyền thống và quy tắc theo kinh nghiệm (rule of thumb) nên được thay thế bằng cách khai thác chuỗi thao tác chính xác sau khi nghiên cứu cẩn thận các cá nhân trong quá trình làm việc. Lý thuyết của Taylor đạt đến đỉnh cao của nó trong những năm 1910; đến thập niên 1920, cho dù vẫn có ảnh hưởng rộng khắp, nhưng đã bắt đầu có những thuyết mới và các ý kiến đối lập. Mặc dầu lý thuyết “Quản lý theo khoa học” trở nên lỗi thời dần từ sau những năm 1930, những nội dung cơ bản nhất của lý thuyết, bao gồm ý tưởng về phân tích, tổng hợp, lập luận, cũng như về tinh thần lao động của nhân công, vẫn có vai trò quan trọng trong nhiều ngành công nghiệp cũng như phương pháp quản lý ngày nay.

1. Nội dung và bối cảnh

Khái niệm cơ bản của lý thuyết được xây dựng bởi Taylor trong những thập niên 1880 và 1890, xuất bản lần đầu trong công trình “Shop Management” vào năm 1903 và “The Principles of Scientific Management” (1911). Khi đang làm đốc công và thợ máy tiện ở Midvale Steel, Taylor nhận ra sự khác biệt bẩm sinh, hình thành bởi nhiều yếu tố như tài năng, trí thông minh, hay động lực, của các nhân công khác nhau thì khác nhau. Ông là một trong những người tiên phong áp dụng khoa học vào tình huống này, thật vậy, hiểu lý do và phương thức để có dung hòa những khác biệt giữa khả năng của nhân công, qua đó sắp xếp họ vào vị trí phù hợp, rồi nhân rộng sang những nhân công khác, bằng cách tạo ra các tiêu chuẩn. Ông cho rằng, kinh nghiệm truyền thống và quy tắc theo kinh nghiệm nên được thay thế bằng cách khai thác chuỗi thao tác chính xác, với mục đích tăng năng suất lao động và giảm bớt những cố gắng của nhân công.

Lý thuyết Quản lý theo khoa học dựa trên sự điều hành chặt chẽ đối với nhân công của người quản lý. Chính vì thế, phương pháp này yêu cầu nhiều quản lý viên hơn so với các phương pháp cũ. Sự khác biệt này phân biệt nhóm những người quản lý dựa trên sự chi tiết trong công việc, khả năng xoay xở, và những người quản lý chỉ đơn thuần và gây ra sự xích mích giữa lao công và quản lý, cũng như sự căng thẳng giữa các giai cấp xã hội, giữa giới lao động chân tay và giới lao động trí óc.

2. Định nghĩa thuyết quản lý theo khoa học

Taylor được coi như là cha đẻ của lý thuyết "Quản lý theo khoa học". Thế nhưng, dù thuật ngữ "Quản lý theo khoa học" và "Chủ nghĩa Taylor" có nghĩa gần tương đương nhau, các nghiên cứu coi "Chủ nghĩa Taylor" chỉ là nền tảng của lý thuyết, và trong nhiều trường hợp, Luật phối hợp cổ điển (ám chỉ lý thuyết có tầm quan trọng đến các thuyết hiện đại, cho dù nó không còn quá "tối tân nữa"). Ban đầu, Taylor gọi cách tiếp cận của mình là "shop management" và "process management". Năm 1910, khi Louis Brandeis phổ biến tên gọi "Quản lý theo khoa học", Taylor nhận ra nó phù hợp hơn cho ý tưởng của mình, và ông bắt dùng nó trong chuyên khảo năm 1911 của mình.

Năm 1918, một tổ chức nghiên cứu gọi là "Masaryk Academy of Work" (Tomáš Garrigue Masaryk Academy of Labour) được thành lập tại Praha để nghiên cứu vấn đề này.

3. Ảnh hưởng lớn nhất tới nền kinh tế

Khoa học quản lý là nền tảng quan trọng của hiệu quả kinh tế, nó được ứng dụng trong thế kỷ 19 và 20 trong cuộc sống của con người khắc phục sự thiếu hụt, và sử dụng theo chủ nghĩa kinh nghiệm quyết định vấn đề gì xảy ra, trong phần này nói thêm về sự ảnh hưởng lớn trong nền kinh tế đó là nghiên cứu chuyển động theo thời gian, và hiệu quả của sự chuyển động, Fordism, điều hành quản lý, điều hành toàn phần, khu công nghiệp, nhà máy sản xuất, logistíc, quản lý kinh doanh, lean manufacturing và sixsigma. Chúng quyết định nhiều tới sản xuất.

4. Cách tiếp cận chung và sự đóng góp

- Phát triển một phương thức chuẩn cho việc thực thi mỗi công việc

- Chọn người lao động có khả năng thích hợp cho từng công việc cụ thể

- Đào tạo đội ngũ công nhân theo phương thức chuẩn đã được phát triển trước đó

- Hỗ trợ công nhân bằng cách giúp họ quy hoạch công việc và loại bỏ những gián đoạn không cần thiết

- Trả lương ưu đãi cho công nhân để tăng sản lượng.

Về sự đóng góp:

- Phương pháp tiếp cận khoa học để thúc đẩy tiến bộ và quản lý doanh nghiệp

- Tầm quan trọng của điều chỉnh hiệu suất

- Bắt đầu có những nghiên cứu cẩn thận về phân công lao động và vai trò trong hoạt động tác nghiệp

- Tầm quan trọng của các tiêu chí lựa chọn

Về các yếu tố:

- Người lao động được xác định rõ trách nhiệm/thẩm quyền một cách chính thức

- Địa vị được đặt theo thứ bậc và quản lý theo chiều dọc (cấp dưới thuộc sự quản lý của cấp cao hơn)

- Lựa chọn kỹ năng kỹ thuật, chuyên môn hay kinh nghiệm

Hoạt động và quyết định được ghi lại cho phép ghi nhớ và thực hiện liên tục

- Quản lý có sự khác nhau dưới góc độ quyền sở hữu và cơ cấu tổ chức

- Quản lý dựa trên nguyên tắc/chuỗi thủ tục cho phép dự đoán chắc chắn/xác thực hành vi.

5. Phương pháp sản xuất hàng loạt

Phương pháp sản xuất hàng loạt còn được gọi phương pháp sản xuất theo dây chuyền do Henry Ford ứng dụng lý thuyết của Taylor vào hệ thống dây chuyền sản xuất ôtô con của ông ta. Cho nên chủ nghĩa Taylor (thuyết Taylor) thường được đề cập cùng với chủ nghĩa Ford (hay thuyết Ford), bởi vì nó đã được liên kết chặt chẽ với phương pháp sản xuất hàng loạt trong các xưởng sản xuất. Phương thức (phương pháp) Taylor là tên riêng dành cho phương thức quản lý theo khoa học của ông.

Taylor giới thiệu nhiều khái niệm mà không được đương thời chấp nhận rộng rãi. Ví dụ, bằng cách quan sát công nhân, ông nhận định rằng công việc lao động cần có cả thời gian giải lao, để công nhân có thể hồi phục lại sức lực sau thời gian lao động mệt mỏi. Ông kiểm chứng điều này với các công việc của nghề bốc xếp quặng: công nhân đã được đào tạo cách tận dụng thời gian còn lại sau giải lao để làm việc, và sản lượng tăng lên đáng kể.

6. Quan điểm của trường phái

F.W.Taylor nhìn nhận con người như một cái máy, ông cho con người là một kẻ trốn việc và thích làm việc theo kiểu người lính (học thuyết X), vì thế cần thúc họ làm việc bằng cách phân chia các công việc một cách hết sức khoa học để chuyên môn hoá các thao tác của người lao động, để họ hoạt động trong một dây chuyền và bị giám sát chặt chẽ, không thể lười biếng

Nghiên cứu của F.W.Taylor là:

- Mối liên hệ giữa người công nhân với nguyên vật liệu và máy móc

- Mối liên hệ giữa công nhân với nhau

Taylor tìm cách giảm thời gian hao phí của công nhân trên mỗi bước công việc bằng cách tối ưu hoá cách thức thực hiện công việc.

Ông đưa ra bốn nguyên lý để gia tăng hiệu quả:

- Nghiên cứu khoa học từng động tác của công nhân để thay thế cho cách làm cũ là đơn thuần dựa vào kinh nghiệm.

- Tuyển chọn công nhân một cách khoa học, đào tạo, giáo dục và giúp họ trưởng thành.

- Cộng tác với người thợ đến mức có thể tin chắc rằng công việc được làm đúng với các nguyên tắc có căn cứ khoa học đã định.

- Chủ và thợ phải cùng nhau chia sẻ công việc và chức trách. Phía chủ phải gánh vác phần việc quan trọng hơn của mình, không đẩy hết mọi việc và phần lớn chức trách về phía công nhân như trước kia.

Với cách làm việc mới này, người công nhân được phát huy tốt hơn vai trò của mình trong sự cộng tác và giúp đỡ của người chủ, vì thế kiểu quản lý mới mang lại hiệu quả cao hơn so với cách quản lý cũ.

Một ý tưởng khác của Taylor dựa trên nguyên lý về sự chuyên môn hoá. Ông cho rằng sự giám sát là nguồn gốc duy nhất của quyền lực và một quản đốc không thể đảm nhiệm toàn bộ các nhiệm vụ giám sát. Do đó, ông đề nghị mỗi quản đốc chỉ phụ trách một lĩnh vực chuyên môn nhất định - là phạm vi quyền lực của người đó. Taylor gọi đó là hệ thống giám sát theo chức năng.

Đối với công nhân, Taylor cho rằng động lực thúc đẩy họ tốt nhất là sử dụng các biện pháp khuyến khích vật chất bằng cách trả lương theo mức độ hoàn thành công việc. Theo ông những công nhân đạt một mức tiêu chuẩn sản xuất nào đó thì họ được trả mức lương như quy định. Khi công nhân sản xuất vượt mức chuẩn quy định thì phần sản phẩm vượt chỉ tiêu đó người công nhân được nhận mức lương ở tỷ lệ cao hơn.

7. Những người tiếp bước Taylor

Vợ chồng Frank-Lillian Gilbreth và Henry Gantt (1868 - 1924)

Chụp ảnh thao tác để nghiên cứu và sắp xếp hợp lý các thao tác làm việc. Phân chia công việc thành những loại thao tác bằng tay khác nhau và đề nghị mỗi người công nhân thay đổi cấu trúc công việc nhằm tăng năng suất và giảm sự mệt mỏi cho công nhân.

Sau khi Frank mất, bà Lillian đã tiếp tục công việc của chồng và tập trung vào khía cạnh con người của kỹ thuật công nghiệp. Bà đưa ra ý tưởng về việc công nhân cần được làm việc trong những điều kiện đảm bảo an toàn, có số ngày làm việc tiêu chuẩn, được nghỉ giưa giờ và nghỉ ăn trưa vào giờ quy định.

8. Đánh giá tư tưởng của Taylor

Ngày nay, những ý tưởng của Taylor và các thành viên khác thuộc trường phái quản trị khoa học vẫn được áp dụng ở nhiều công ty. Nhiều công ty đã làm ra sản phẩm nhanh và rẻ hơn từ sự đầu tư huấn luyện những kỹ năng thích hợp cho công nhân của họ. Từ phát hiện của Taylor, các nhà quản trị ngày nay cải tiến quy trình tuyển dụng và huấn luyện nhân viên và tìm kiếm một phương pháp hữu hiệu để hoàn thành công việc.

Tuy nhiên, trường phái này chỉ quan tâm đến sự gia tăng kết quả đầu ra, không quan tâm đến khía cạnh con người trong sản xuất, họ cho rằng công nghệ giữ vai trò trung tâm, nhân công là một yếu tố của hao phí sản xuất. Taylor và Frank cho rằng công nhân được thúc đẩy chủ yếu bằng sự phục vụ để có thu nhập cao nhằm thoả mãn các nhu cầu khác của công nhân như nhu cầu xã hội, các điều kiện làm việc và sự thỏa mãn nghề nghiệp.

Việc chuyên môn hoá quá mức làm cho công việc trở nên buồn chán, đơn điệu. Người công nhân có thể chủ động làm việc dưới mức yêu cầu.

Làm tăng sự lệ thuộc của người công nhân vào máy móc thiết bị, công xưởng, không có khả năng làm việc độc lập.

Luật Minh Khuê (Sưu tầm và Biên soạn)

Video liên quan

Chủ đề