Hầu hết mọi người sẽ trải qua chứng run tay vào một lúc nào đó. Tuy nhiên, run tay luôn đáng được chú ý bởi vì chúng có thể giúp bạn hiểu được những gì xảy ra với sức khỏe thể chất và tinh thần. Show Một số khu vực của bộ não có liên quan đến việc tạo ra và kiểm soát sự di chuyển của tất cả các chi, theo Katerina Markopoulou, nhà thần kinh học và chuyên gia rối loạn vận động tại Viện Thần kinh Hệ thống Y tế thuộc Đại học NorthShore (Mỹ). Chúng bao gồm vỏ não vận động ở thùy trán của não, hạch nền (cấu trúc sâu trong não) và thân não (kết nối giữa não và tủy sống), theo Reader. Quá nhiều caffeineNếu quá căng thẳng, bạn có thể thấy rằng tay run lên khi bạn cố gắng sắp xếp các giấy tờ trên bàn. Theo Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA), 400 mg caffeine mỗi ngày là chấp nhận được, đây là lượng được tìm thấy trong 4 đến 5 tách cà phê. Nhưng bạn cũng có nhiều khả năng đối phó với các tác dụng phụ như bồn chồn, mất ngủ, lo lắng và nhịp tim nhanh, theo Reader. Vì vậy, tay hết run có thể là một trong 10 điều xảy ra với cơ thể khi bạn giảm hoặc bỏ cà phê. Bệnh cường giápTuyến giáp là một tuyến nhỏ ở cổ giúp kiểm soát tim, tiêu hóa, trao đổi chất và nhiều chức năng khác của cơ thể. Khi tuyến giáp đang chạy quá mức, phần còn lại của cơ thể cũng vậy. Cùng với việc giảm cân không chủ ý, bạn cũng có thể nhận thấy tay run, theo Mayo Clinic. Xét nghiệm máu có thể xem xét mức độ tuyến giáp để được điều trị nếu có bệnh. Tác dụng phụ của thuốcĐây là những gì được biết đến như một cơn run do thuốc. Hệ thần kinh đang báo hiệu sai lệch đến cơ bắp do một loại thuốc mà bạn đã dùng. Có nhiều loại thuốc có thể kích hoạt vấn đề này, bao gồm thuốc chống trầm cảm, thuốc huyết áp và thuốc hen suyễn, cũng như liều thuốc tuyến giáp không phù hợp. Nếu nhận thấy tay run sau khi bắt đầu dùng thuốc mới, hãy nói chuyện với bác sĩ. RượuNếu bạn lạm dụng rượu, run tay có thể là triệu chứng của nghiện rượu. Sự run rẩy có thể xảy ra vì rượu đã làm thay đổi hóa học não và buộc cơ thể bạn phải chạy quá tốc độ. Run tay có thể ở mức tồi tệ nhất trong 24 đến 48 giờ sau lần uống cuối cùng uống rượu và sau đó dần dần hết trong vòng 5 ngày, theo Reader. Chứng run cơ bảnRối loạn hệ thần kinh cũng có thể khiến tay run rẩy. Chứng run cơ bản gây ra rung lắc không tự nguyện và thường là do di truyền, theo Mayo Clinic. Nó thường thấy nhất ở tay, và khi làm các công việc hằng ngày, như cầm ly nước, cầm bút... Tuy nhiên, hãy yên tâm, đây không phải là khởi đầu của bệnh Parkinson. Ngộ độc thủy ngânNgộ độc thủy ngân rất hiếm, nhưng vì nó có thể gây độc cho hệ thần kinh, nên nó là một nguyên nhân tiềm ẩn gây ra chấn động, theo Viện Rối loạn Thần kinh và Đột quỵ Quốc gia Mỹ. Nếu tiếp xúc với thủy ngân trong thời gian dài đủ để gây ra thiệt hại, bạn cũng có thể gặp các triệu chứng nghiêm trọng khác, bao gồm các vấn đề về đi bộ, suy giảm trí nhớ và mù lòa. Rối loạn lo âu xã hộiRối loạn này có những biểu hiện thể chất, và bao gồm cả run tay, theo Tổ chức Chấn thương Thiết yếu Quốc tế. Đối với những người bị rối loạn thần kinh như ET, sự run tay gây căng thẳng về tinh thần cho người bệnh. Căng thẳng hoặc thiếu ngủNếu bạn bị run tay cơ bản, thì thiếu ngủ hoặc quá căng thẳng sẽ làm trầm trọng thêm sự run tay. Hãy tuân thủ ngủ đủ giấc và các biện pháp tự chăm sóc giúp giảm căng thẳng hàng ngày của bạn. Hãy tập thể dục, thở sâu... Bệnh ParkinsonKhi mọi người nhận thấy tay đang run, họ thường lo lắng rằng tương lai sẽ mắc bệnh Parkinson. Tiến sĩ Markopoulou nói, sự run tay này có thể tự xuất hiện hoặc với các dấu hiệu khác như cứng khớp, chậm chuyển động hoặc các vấn đề về thăng bằng thì mới có thể được coi là nguy cơ mắc bệnh Parkinson, theo Reader. Động kinh rung giật cơ là một sự co cơ thoáng qua, tạo cảm giác như giật ở một hoặc một nhóm cơ. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng và đôi khi chẩn đoán xác định bằng điện cơ. Điều trị bao gồm điều chỉnh các nguyên nhân có thể đảo ngược và, khi cần thiết, thuốc uống để giảm triệu chứng. Giật cơ sinh lý có thể xảy ra khi một người đang ngủ và trong pha ngủ sớm (gọi là giật cơ khi ngủ). Giật cơ khi ngủ có thể là cục bộ, đa ổ, phân đoạn, hoặc toàn thân (nhìn dưới) và có thể giống như một phản ứng giật mình. Một loại chứng giật cơ sinh lý khác là nấc (giật cơ hoành).
Các nguyên nhân khác của bệnh nhược cơ bao gồm các rối loạn thoái hóa ảnh hưởng đến các hạch nền và một số thể sa sút trí tuệ. Nhược cơ có thể được phân loại như sau:
Giật cơ có thể được phân loại dựa trên vị trí xuất phát của chúng:
Phân loại giật cơ dựa trên nguồn gốc được cho là hữu ích nhất giúp lựa chọn phương án điều trị hiệu quả nhất. Biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân bị giật cơ có thể được phân loại là dương tính hoặc âm tính:
Giật cơ dương tính và âm tính thường xảy ra ở cùng một bệnh nhân. Nguyên nhân của giật cơ có thể là nguyên phát (nguyên phát), mắc phải (phổ biến nhất) hoặc vô căn.
Giật cơ có thể có kích hoạt hoặc không:
Các triệu chứng và dấu hiệu của rung giật cơĐộng kinh rung giật cơ có thể khác nhau về biên độ, tần số, và sự phân bố. Giật cơ có thể xảy ra tự phát hoặc gây ra do kích thích (ví dụ: tiếng ồn đột ngột, chuyển động, ánh sáng, mối đe dọa thị giác). Giật cơ do chấn thương đầu nghiêm trọng hoặc tổn thương não do thiếu oxy máu - thiếu máu cục bộ có thể trở tiến triển khi thực hiện các vận động có chủ ý (giật cơ chủ động,) hoặc có thể xảy ra tự phát khi hạn chế vận động do chấn thương. Giật cơ do rối loạn chuyển hóa có thể là đa ổ, bất đối xứng, và khởi phát bởi các kích thích; thường ở các vị trí mặt hoặc gốc chi. Nếu bệnh lý căn nguyên vẫn tồn tại, các cơn giật cơ và các cơn co giật vẫn sẽ tiếp tục xảy ra.
Chẩn đoán động kinh rung giật cơ chủ yếu dựa vào lâm sàng. Các test thực hiện dựa trên bệnh lý căn nguyên nghi ngờ trên lâm sàng. Chẩn đoán hình ảnh não được thực hiện.
Điều trị giật cơ khởi đầu với việc điều chỉnh các rối loạn chuyển hóa cơ bản hoặc các nguyên nhân khác nếu có thể sửa chữa được. Ngừng hoặc giảm liều thuốc nếu loại thuốc đó là căn nguyên gây giật cơ. Để làm giảm triệu chứng, clonazepam 0,5 đến 2 mg/lần uống 3 lần/ngày thường có hiệu quả. Valproate 250 đến 500 mg/lần uống 2 lần/ngày hoặc levetiracetam 250 đến 500 mg/lần uống 1 hoặc 2 lần/ngày có thể có hiệu quả; hiếm khi các thuốc chống động kinh khác có tác dụng. Liều clonazepam hoặc valproate có thể cần phải thấp hơn ở người cao tuổi. Vị trí khởi phát giật cơ có thể giúp hướng dẫn điều trị. Ví dụ, valproate, levetiracetam, và piracetam có khuynh hướng có hiệu quả trong cơ giật cơ vỏ não nhưng không hiệu quả ở các loại giật cơ khác. Clonazepam có thể có hiệu quả trong tất cả các loại giật cơ. Trong một số trường hợp, cần thiết phải kết hợp thuốc. Trước đây, nhiều loại myoclonus dường như đáp ứng với tiền thân serotonin 5-hydroxytryptophan, được sử dụng với thuốc ức chế carbidopa, nhưng 5-hydroxytryptophan không còn được sử dụng nữa.
Bản quyền © 2024 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền. |