Khi bị dao đâm phải phẫu thuật như thế nào năm 2024

Bệnh nhân N.V.L 37 tuổi thường trú tại (xã Đông Sơn, huyện Chương Mỹ, Hà Nội) được đưa đến Bệnh viện Đa khoa Hà Đông trong tình trạng da, niêm mạc nhợt nhạt, mạch nhanh nhỏ, khó bắt, huyết áp không đo được. Vết thương thấu bụng ngay dưới mũi ức, kích thước khoảng 7cm, lộ tạng, chảy nhiều máu.

Ngay lập tức kíp trực đã tiếp nhận bệnh nhân, kích hoạt báo động đỏ nội viện, vừa hồi sức, truyền máu, vừa chuyển người bệnh lên phòng mổ thực hiện phẫu thuật cấp cứu tối khẩn cấp.

Khi mở bụng bệnh nhân để kiểm tra, các bác sĩ phát hiện thấy tĩnh mạch thận trái rách bán phần, đang chảy máu mạnh. Kíp phẫu thuật đã tiến hành hội chẩn ngay trong khi mổ và thống nhất khâu vết thương mạch máu, bảo tồn thận trái. Song song với phẫu thuật cầm máu, người bệnh đã được truyền 8 đơn vị khối hồng cầu cùng nhóm.

Sau khi cầm máu thành công, các bác sĩ tiếp tục kiểm soát ổ bụng phát hiện một loạt tổn thương lớn: Thủng xuyên táo hang vị dạ dày, đại tràng ngang, rách 1/2 chu vi D4 tá tràng. Sau 4 giờ phẫu thuật, vết thương dạ dày, tá tràng, đại tràng đã được khâu nối, mở thông ruột non, dẫn lưu ống mật chủ, đặt sonde dạ dày, bệnh nhân được chuyển sang hồi sức để theo dõi và chăm sóc.

Những ngày tiếp theo sau phẫu thuật, bệnh nhân được sự chăm sóc tận tâm của đội ngũ bác sĩ, điều dưỡng viên của bệnh viện nên đã nhanh chóng phục hồi cả về thể chất và tinh thần. Sau 10 ngày, vết mổ của bệnh nhân đã khô, ăn, uống sinh hoạt bình thường, các dẫn lưu được rút bỏ, các xét nghiệm thăm dò chức năng gan thận về mức bình thường và được xuất viện.

Theo các bác sĩ, đây là một ca bệnh khó, phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro, có thể tử vong ngay trên bàn mổ, sau mổ có thể có nhiều biến chứng vì vậy để ca mổ thành công đòi hỏi phẫu thuật viên trình độ cao, giàu kinh nghiệm, cùng với sự khẩn trương và phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các chuyên khoa, sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo bệnh viện. Qua trường hợp này, các bác sĩ khuyến cáo người dân khi có vết thương phức tạp thì người hỗ trợ, nạn nhân không nên tự ý rút dị vật mà cần đưa bệnh nhân tới cơ sở y tế gần nhất để được xử lý vết thương kịp thời.

Tổn thương gan có thể là kết quả của chấn thương đụng dập hoặc xuyên thủng. Các bệnh nhân có đau bụng, đôi khi lan lên vai, và cảm ứng phúc mạc. Chẩn đoán được thực hiện bằng CT hoặc siêu âm. Các phương pháp điều trị là theo dõi và đôi khi là phẫu thuật; hiếm khi cần phải cắt gan từng phần.

Tác động đáng kể (ví dụ, va chạm xe) hoặc vết thương xuyên (ví dụ, vết dao đâm, vết đạn bắn) đều có thể gây tổn thương gan. Các tổn thương ở gan bao gồm các khối máu tụ dưới bao và các vết rách bao nhỏ đến các vết rách sâu vào nhu mô, tổn thương đụng dập chủ yếu và đứt cuống mạch.

Mức độ tổn thương gan được phân thành 6 mức độ:

Các mức độ tổn thương ở gan

Mức độ

Tổn thương

1

Máu tụ dưới bao < 10% diện tích bề mặt

Vết rách sâu < 1 cm

2

Máu tụ dưới bao 10-50% diện tích bề mặt, máu tụ trong nhu mô < 10 cm

Vết rách sâu 1-3 cm và dài < 10 cm

3

Máu tụ dưới bao > 50% diện tích bề mặt, máu tụ trong nhu mô > 10 cm hoặc bất kỳ khối máu tụ nào mở rộng hoặc bị vỡ.

Vết rách sâu > 3 cm

4

Sự gián đoạn nhu mô 25-75% của một thùy gan hoặc 1-3 hạ phân thùy Cuoinaud trong một thùy

5

\> 75% thùy gan hoặc > 3 hạ phân thùy Couinaud

Nhiễm trùng tĩnh mạch gan trong thai kỳ (ví dụ, vena cava hồi mãn hoặc các tĩnh mạch chính ở trung tâm)

6

Đứt cuống gan

Áp xe xảy ra trong khoảng 3-5% chấn thương, thường là do các mô bị phân hủy khi tiếp xúc mật. Cần nghi ngờ biến chứng này ở những bệnh nhân đau, sốt và tăng bạch cầu trong những ngày sau khi bị thương; CT giúp khẳng định chẩn đoán. Áp xe thường được điều trị bằng dẫn lưu qua da, nhưng sẽ cần phẫu thuật mở bụng nếu dẫn lưu qua da không thành công.

Triệu chứng và dấu hiệu của chấn thương gan

Các biểu hiện xuất huyết ổ bụng nghiêm trọng, bao gồm sốc mất máu, đau bụng, cảm ứng phúc mạc và chướng bụng, thường có thể phát hiện được bằng lâm sàng. Xuất huyết nhỏ hoặc khối máu tụ dẫn tới đau bụng và phản ứng thành bụng ở vị trí bụng 1/4 trên phải.

  • Hình ảnh (CT hoặc siêu âm)

Tổn thương gan được xác nhận bằng CT đối với bệnh nhân toàn trạng ổn định và siêu âm tại giường hoặc mở ổ bụng thăm dò ở những bệnh nhân không ổn định.

  • Theo dõi
  • Đôi khi can thiệp gây tắc mạch hoặc phẫu thuật.

Tỷ lệ thành công trong điều trị không phẫu thuật là khoảng 92% đối với tổn thương độ 1 và 2, 80% đối với tổn thương độ 3, 72% đối với tổn thương độ 4, và 62% đối với tổn thương độ 5. Sau khi điều trị, chưa có sự đồng thuận trong các tài liệu về thời gian lưu trú ở đơn vị hồi sức tích cực (ICU), ở lại bệnh viện, phục hồi chế độ ăn, thời gian nghỉ ngơi, hoặc hạn chế hoạt động sau khi xuất viện ( ). Tuy nhiên, chấn thương càng nặng, càng cần phải cẩn thận hơn trước khi cho phép tiếp tục các hoạt động có thể liên quan đến nâng vật nặng, thể thao va chạm hoặc chấn thương phần thân.

Khi thực hiện phẫu thuật, các vết rách nhỏ thường có thể được khâu hoặc điều trị bằng các chất cầm máu (ví dụ, xenlulose oxy hoá, keo fibrin, hỗn hợp thrombin và bột gelatin). Phẫu thuật đối với các thương tổn sâu hơn và phức tạp hơn có thể không dễ dàng. Cắt gan và thậm chí cắt bán phần hiếm khi được thực hiện

  • Stassen NA, Bhullar I, Cheng JD: Nonoperative management of blunt hepatic injury: An Eastern Association for the Surgery of Trauma practice management guideline. J Trauma Acute Care Surg 73:S288-S293, 2012. doi: 10.1097/TA.0b013e318270160d
  • Hậu quả chính tức thì là chảy máu ở các tổn thương gan, thường tự ngưng, đặc biệt nếu tổn thương độ 1 hoặc 2, nhưng có thể cần phải gây tắc mạch hoặc phẫu thuật; tỉ lệ mắc bệnh và tử vong có thể là đáng kể trong những tổn thương mức độ nặng.
  • Các biến chứng bao gồm rò mật, tụ mật và áp xe.
  • Chẩn đoán dựa vào CT nếu toàn trạng ổn định.
  • Điều trị cho bệnh nhân bằng cách phẫu thuật mở bụng (nếu không ổn định), theo dõi (nếu ổn định), hoặc đôi khi gây tắc mạch (ví dụ, nếu ổn định nhưng đòi hỏi truyền máu liên tục).

Khi bị dao đâm phải phẫu thuật như thế nào năm 2024

Bản quyền © 2024 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.