Hồ gươm còn có tên gọi khác là gì năm 2024

Hồ Gươm trước kia hồ có tên gọi là hồ Lục Thủy (vì nước có màu xanh ngắt quanh năm). Cái tên hồ Hoàn Kiếm mới có từ thời Lê. Tương truyền Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, có mò được một lưỡi kiếm dưới sô... Xem thêm

Hồ gươm còn có tên gọi khác là gì năm 2024

Hồ Gươm có tổng diện tích khoảng 12 ha, là hồ nước ngọt tự nhiên của thành phố Hà Nội. Hồ có vị trí kết nối các phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Cầu Gỗ, Lương Văn Can, Lò Sũ... với khu phố Tây do người Pháp quy hoạch cách đây hơn một thế kỷ là Bảo Khánh, Nhà Thờ, Tràng Thi, Hàng Bài, Đinh Tiên Hoàng, Tràng Tiền...

Ngoài tên gọi Hồ Hoàn Kiếm gắn liền với truyền thuyết vua Lê Lợi trả gươm báu cho rùa thần, Hồ Gươm còn có các tên gọi khác là Lục Thủy (vì nước có màu xanh quanh năm), hồ Thủy Quân (dùng để duyệt thủy binh), hồ Tả Vọng và Hữu Vọng.

Tháp Rùa nằm ở giữa Hồ Gươm, được xây dựng trong khoảng hai năm 1884-4/1886 và chịu ảnh hưởng của kiến trúc Pháp. Tháp hình chữ nhật, có bốn tầng và cao gần 9 m, móng tầng 1 rộng gần 30 m2. Cùng với Cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn, tượng đài vua Lê, Hồ Gươm trở thành tụ điểm văn hóa, du lịch được yêu thích của Hà Nội, đặc biệt trong những ngày lễ tết.

Hồ gươm còn có tên gọi khác là gì năm 2024

Hồ Gươm và tháp Rùa, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ảnh: Ngọc Thành

Câu 4: Quận Hoàn Kiếm "thâu tóm" gần hết những phố bắt đầu bằng chữ "Hàng", nét đặc trưng của khu phố cổ Hà Nội. Trong số đó, phố nào dài nhất?

Hồ này ngày xưa gọi là hồ Lục Thủy, vì sắc nước bốn mùa đều xanh, còn tên gọi Hoàn Kiếm hay Hồ Gươm, theo tục truyền thì có từ đời Lê Thái Tổ. Người ta nói vua Lê Thái Tổ trước khi khởi nghĩa Lam Sơn chống quân xâm lược nhà Minh, được thần cho một thanh kiếm. Năm 1428 khi đã lấy lại hoàn toàn được đất nước, lên làm vua, đóng đô ở Thăng Long, một hôm nhà vua ngự thuyền chơi trong hồ, bỗng thấy một con rùa vàng nổi lên.

Nhà vua đang dùng thanh kiếm ở tay, với theo, con rùa ngẩng cao cổ đớp lấy thanh kiếm rồi lặn xuống đáy hồ. Nhà vua sai tát cạn hồ để tìm, rùa không thấy đâu mà kiếm cũng mất tích, nên cho rằng đó là thần đã cho kiếm để giết giặc, nay giặc yên rồi thần lại lấy kiếm đi. Bèn đổi tên hồ là Hoàn Kiếm, nghĩa là trả lại kiếm thần.

Theo hình thế thiên nhiên có vẻ kỳ quan, các cụ ngày xưa đã hình dung hồi này là “giáp điệp xuyên hoa cách”, nghĩa là “kiểu đất bươm bướm châm hoa. Vì hồ này xưa kia phạm vi đất rộng, và có hai phần đối nhau như hai cánh bướm xòe ra. Phần trên vào khoảng từ Hàng Đào, Hàng Dầu trở ra Hàng Khay; phần dưới từ đó trở xuống Hàng Chuối bây giờ. Chỗ hai phần giáp nhau một khoảng đất dài tức là làng Cựu Lâu, tức khoảng Hàng Khay xuống gần Nhà Hát Lớn, khoảng đất ấy như hình thân con bướm.

Từ thế kỷ 16 trở về sau, Trịnh Tùng sau khi đã đánh đuổi được họ nhà Mạc, lấy lại giang sơn cho nhà Lê, cậy công, bắt vua Lê phải phong cho mình và con cháu nối nghiệp về sau đều làm vương, (người bấy giờ gọi là chúa).

Họ Trịnh đã được làm chúa rồi, lập phủ đệ riêng một khu chiếm suốt cả phường Báo Thiên. Phủ đệ của chúa Trịnh cũng không kém gì cung điện của vua Lê, nơi làm việc cũng không gọi là triều đình, chỉ gọi là phủ liêu, nhưng cũng có đủ văn võ bách quan, quân lính thị vệ, nghi thức lại còn oai hơn vua Lê nữa.

Phủ chúa suốt một dãy có 52 tòa lâu đài dinh thự, đều ngoảnh mặt ra hồ Hoàn Kiếm. Theo hướng ấy, các đời chúa Trịnh mới gọi phần hồ trên là Tả Vọng, phần hồ dưới là Hữu Vọng. Gọi là “vọng” theo ý riêng của họ Trịnh là cả hai bên hồ đều trông vào phủ chúa. Và bên hồ Tả Vọng, các đời chúa Trịnh xây những nguyệt đài, thủy tạ bên bờ để làm nơi ngự chơi, đặc biệt là xây một cái đình ở trên gò Rùa, tức là tầng dưới của tháp Rùa ngày nay.

Lại nhân tình thế hồ có hai phần đối nhau như thế, chúa Trịnh liền dùng làm nơi luyện tập thủy quân, dựng một đài cao ở khoảng đất giữa, gọi là duyệt võ đài, hai bên hồ làm trận địa của đôi bên, cùng nhau biểu diễn các chiến pháp thủy công. Chúa Trịnh ngồi trên đài cao xem xét để định thắng thua, hơn kém. Cũng vì vậy mà đời ấy gọi là hồ Thủy quân.

Sách Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội của Doãn Kế Thiện. Ảnh: Quỳnh Anh.

Tất cả lâu đài dinh thự và kiến trúc vật ở bờ hồ, về sau đều bị Lê Chiêu Thống đốt hết, duy chỉ có Tả Vọng đình ở ngoài hồ, nên may mà còn lại.

Về phía đông nam hồ này, vào đời Hồng Đức có đào một ngòi nhỏ thông ra sông Cái, các thuyền nhỏ ở ngoài sông có thể vào trong hồ được, nhưng về sau hàng năm mùa nước sông lên, không cách chắn giữ, nước sông tràn vào ngập cả nội thành, nên đã phải lấp bỏ.

Về phần hồ này, nhất là Hữu Vọng, cứ bị lấp dần dần, hồi thực dân Pháp mới chiếm cứ Hà Nội, vẫn còn khá rộng, người ta gọi riêng là hồ Thủy quân, sau đó thực dân Pháp cho lấp hẳn, không còn lại dấu vết.

Còn phần hồ Tả Vọng về phía Bắc và phía Đông là khoảng từ Hàng Đào đến Hàng Dầu, bảy mươi năm trước vẫn là một làn nước không sâu lắm, người ta bắc những cái cầu gỗ nối nhau để làm lối đi lại giao thông, rồi thực dân Pháp cũng lấp dần để làm đường và mở một phố gọi là phố Cầu Gỗ; ngoài ra các phía bờ hồ kia cũng bị lấp mất nhiều, chỉ còn lại một phần nhỏ như chúng ta thấy ngày nay.

Hồ Gươm có bao nhiêu tên gọi?

Hồ Hoàn Kiếm còn được gọi là Hồ Gươm, là một hồ nước ngọt tự nhiên nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội. Hồ có diện tích khoảng 12 ha. Trước kia, hồ còn có các tên gọi là hồ Lục Thủy (vì nước có màu xanh quanh năm), hồ Thủy Quân (dùng để duyệt thủy binh), hồ Tả Vọng và Hữu Vọng (trong thời Lê mạt).

Hồ Gươm Hà Nội có từ khi nào?

Được xây dựng từ những năm 1884, với lối kiến trúc Pháp kết hợp với kiến trúc phong kiến cổ xưa của Việt Nam, Tháp Rùa nổi lên giữa hồ cổ kính, rêu phong và đầy trầm mặc.

Hồ Gươm có ý nghĩa gì?

Hồ Hoàn Kiếm là biểu tượng đặc biệt nhất của thủ đô, gắn liền với truyền thuyết vua Lê Thái Tổ trả lại gươm báu cho rùa thần sau khi đánh tan giặc Minh thời thế kỷ 15. Hồ Hoàn Kiếm (hay còn gọi là hồ Gươm) nằm ở trung tâm thủ đô, kết nối với khu phố cổ do người Pháp quy hoạch cách đây hơn một thế kỷ.

hồ Lục Thủy có màu gì?

Hồ Lục Thủy xưa là con đẻ của sông Hồng. Khi hồ bị người đời ngăn lại phục vụ cho dân sinh bởi có màu nước biếc xanh nên được người có chữ đặt tên cho là hồ Lục Thủy. Hồ cũng là nơi có nhiều huyền thoại gắn liền với thanh gươm đánh giặc của Đức vua Lê Lợi.