Hệ thống guồng nước ở huyện bá thước thanh hóa năm 2024

Cối xay gió là một hình ảnh tiêu biểu của thời Trung cổ phương Tây. Dù thô sơ nhưng nó cũng là một bước phát triển về kỹ thuật của nhân loại tận dụng năng lượng gió. Người ta cho rằng cái cối xay gió có thể ra đời vào khoảng thế kỷ 11 - 12, hoặc sớm hơn và đi kèm theo chúng là những cải tiến về cối xay, bánh xe, ròng rọc và các kỹ thuật truyền chuyển động bằng lực quay tròn.

Hệ thống guồng nước ở huyện Bá Thước, Thanh Hóa - Ảnh: Nguyễn Anh Tuấn.

Song thực ra bánh xe gió đầu tiên được phát minh bởi kỹ sư Hy Lạp cổ Heron ở Alexandria vào thế kỷ 1 trước CN. Từ thế kỷ 4 sau CN, người Trung Hoa và Tây Tạng đã dùng những bánh xe tự quay (bằng sức gió) gọi là "luân xa" để cầu kinh. Người Trung Hoa cũng có nhiều phát minh về tận dụng sức nước để quay bánh xe, đó là các loại cối xay nước, guồng nước, như: Ban xa - guồng quay tay, Thủy triển - cối xay nước, Thủy đối - cối giã gạo nước… những cái này được thấy trong các cuốn sách từ thời Minh, thế kỷ 15, như Thiên công khai vật và Tam tài đồ hội.

Từ cuối thế kỷ 12, cối xay gió phổ biến ở miền Bắc nước Pháp, miền Tây nước Anh và vùng Flanders (bao gồm Bỉ và Hà Lan). Người ta cho rằng cối xay gió cổ nhất châu Âu có niên đại 1185 ở Weeley vùng Yorkshire nước Anh.

2. Rất có thể người Việt (Kinh) đã từng dùng các loại guồng nước, nhưng cho đến thế kỷ 19 - 20, guồng nước chỉ xuất hiện ở các vùng miền núi, trong đó chủ yếu người Thái và người Mường sử dụng. Ở đồng bằng không có những suối nguồn liên tục, việc dùng guồng nước không thích hợp, mặc dù phải tát nước bằng gầu dai và gầu sòng vất vả hơn nhiều. Còn cối xay gió thì dường như không xuất hiện ở Việt Nam. Mặc dù bánh xe bằng đất, bằng các loại hạt cây và chong chóng giấy quay bằng gió được trẻ con làm đồ chơi từ rất xa xưa, nhưng người lớn đã không nghiên cứu chúng và ứng dụng.

Người Thái và người Mường khi ở đâu việc đầu tiên là chọn những địa thế có thung lũng rộng, xung quanh là núi tiện cho việc canh tác lớn, và dẫn nước từ núi về bản và từ suối vào ruộng. Những cánh đồng đó chính gọi là "mường". Ở vùng Hòa Bình có bốn mường lớn là Mường Bi (huyện Tân Lạc), Mường Vang (huyện Lạc Sơn), Mường Thàng (huyện Cao Phong) và Mường Động (huyện Kim Bôi) - (Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động). Ở Tây Bắc cũng có bốn Mường lớn là Mường Thanh (Điện Biên Phủ), Mường Lò (thị xã Nghĩa Lộ và huyện Văn Chấn), Mường Than (huyện Than Uyên, Nghĩa Lộ) và Mường Tắc (Phù Yên , Sơn La) - (Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tắc). Hiện các huyện Tân Lạc, Kim Bôi thuộc Hòa Bình, Bá Thước thuộc Thanh Hóa vẫn còn vài bản làng dùng guồng dẫn nước.

3. Để làm guồng nước thoạt tiên người ta dựng cái trục quay trên một giá đỡ, ngày nay có thể dùng vòng bi lồng vào khớp trục, nhưng xưa kia chỉ có giá đỡ bằng chạc cây và đặt vào đó một nửa khoanh vầu tròn. Trục có thể quay lẹ làng trên đó.

Người ta dùng tre và vầu kết hai vòng lớn làm đường kính bánh guồng, và những nan hoa nối chéo từ trục sang hai vòng bánh, tức là nan hoa từ điểm trục bên này vắt chéo qua vòng bên kia. Nơi tiếp giáp của các nan hoa bên trong guồng, người ta cài tiếp hai vòng hai bên điểm tiếp giáp để lực giữ guồng được khỏe. Đầu guồng sẽ cài những quạt đan để nước đập vào đó và kề luôn đó là những ống bương múc nước, rồi liên tục chuyền nước vào hệ thống máng.

Một vài chi tiết khác được gia cố ở trục, điểm kết nan hoa. Tất cả guồng được buộc bằng một loại dây rừng rất bền và dẻo.

Người Việt và Mường gọi cái này là Guồng nước, người Thái gọi là Cọn nước. Tùy theo dòng chảy và yêu cầu lấy nước, người ta sẽ đặt nhiều hay ít các guồng liên tục, có những bãi guồng có đến vài chục cái lớn nhỏ. Guồng nhỏ thì đường kính 2,5 thước, lớn thì đường kính tới 7 - 8 thước. Cứ ngày đêm không nghỉ, guồng nước là một hình ảnh rất nên thơ của núi rừng miền Tây và Tây Bắc, là biểu hiện của văn minh nông nghiệp của một thời.

Bản Đôn, xã Thành Lâm là một bản miền núi mộc mạc thuộc vùng đệm của Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông. Có tiền năng rất lớn về điều kiện tự nhiên và truyền thống văn hóa về phát triển du lịch cộng đồng thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước đến thăm quan, nghỉ dưỡng. Đến với Bản Đôn du khách sẽ được chiêm ngưỡng những cánh đồng ruộng bậc thang, những con đường ven theo sườn đồi nối liền các bản làng người Thái, Mường. Vào tháng 5, tháng 6, tháng 9 và tháng 10 là thời điểm Bản Đôn bắt đầu bước vào mùa lúa chín. Khi đó, tất cả các khu ruộng bậc thang bên sườn đồi sẽ chuyển sang màu vàng rực rỡ khiến nơi đây mang một vẻ đẹp trù phú và mơ mộng. Thời điểm này cũng chính là lúc vùng đất yên bình hút khách du lịch nhất.

Hệ thống guồng nước ở huyện bá thước thanh hóa năm 2024

Bên cạnh các homestay, tại bản đôn còn có Puluong Retreat xinh xắn được xây dựng ngay sát mép ruộng bậc thang. Vì được xây dựng theo mô hình sinh thái, nên PuLuong Retreat không sử dụng các thiết bị tiêu tốn điện năng và hiện đại như tivi, tủ lạnh, điều hòa; Pu Luong Treehouse, Pu luong Home các điểm nghỉ dưỡng thú vị và ấn tượng với Banggalow tiện nghi nhưng thân thiện với môi trường. Nghỉ ngơi ở Bản Đôn, du khách có thể tận hưởng nhiều trải nghiệm thú vị như: Trekking qua các bản làng truyền thống và những ruộng bậc thang, tham quan khu guồng nước, thác nước tự nhiên, hang động kì vĩ.

Hệ thống guồng nước ở huyện bá thước thanh hóa năm 2024

Bản Đôn có 80 hộ dân sinh sống, 285 khẩu, 23 hộ và 01 doanh nghiệp kinh doanh du lịch cộng đồng. Bản còn giữ nguyên nếp nhà sàn truyền thống, nằm ven theo chân đồi, nơi dây có những cánh đồng ruộng bậc thang đẹp và những mùa lúa xanh và lúa chín; với khí hậu mát mẻ quanh năm; cảnh quan thiên nhiên đặc sắc, hoang sơ của những cánh rừng nguyên sinh, cùng với những bản làng có đời sống sinh hoạt đậm đà bản sắc của dân tộc Thái gợi cho người ta cảm giác nơi đây giống một vùng đất bình yên, trong lành và nên thơ với người dân bản địa trân chất mộc mạc, thân thiện, thật thà.

Với những món ăn phong phú, đa dạng, được chế biến công phu từ những nguyên liệu gần gũi có sẵn từ núi rừng, suối khe tại địa phương.Tùy từng thời điểm, từng mùa trong năm mà có các món ăn khác nhau. Một số món mà nguời Thái hay biện như: Cá nướng, cơm lam, thịt lợn hấp, gà nướng, ốc đá, xôi tím... Món ăn thông dụng và ưa thích nhất là xôi nếp nương, hạt to, trong và thơm... Đặc biệt, nơi đây nổi tiếng với các món ăn được chế biến từ vịt Cổ Lũng - giống vịt đã trở thành thương hiệu nổi tiếng, nhiều người biết đến và là niềm tự hào của địa phương. Giống vịt cổ ngắn, chân thấp, được thả ở suối, ở đồng nên thịt chắc và thơm...

Du khách đến với bản Đôn có những đêm đốt lửa trại, uống rượu cần, cùng giao lưu văn nghệ với điệu xòe Thái, khắp Thái, hát múa dân ca, dân vũ đậm đà bản sắc dân tộc với các thiếu nữ xinh đẹp trong trang phục dân tộc, tiếng nhạc cụ truyền thống làm mê đắm lòng du khách.

Dệt thổ cẩm là nghề truyền thống lâu đời của bà con nơi đây vơi bàn tay khéo léo đồng bào đã tự dệt nên trang phục cho mình và các đồ dùng khác như: chăn, gối, đệm, túi, khăn…Hiện vẫn còn được lưu giữ, với sự khéo léo của những người phụ nữ Thái đã làm ra các sản phẩm vô cùng tinh xảo mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc mình là món quà lưu niệm cho du khách mang về làm quà cho người thân.

Du khách sẽ được hướng dẫn viên địa phương dẫn đường, giới thiệu về bản Đôn, dẫn đi thăm bản lân cận khác nếu du khách có nhu cầu, khám phá hệ sinh thái phong phú của rừng Pù Luông, tham gia trải nghiệm các hoạt động lao động sản xuất cũng như đời sống sinh hoạt hàng ngày với người dân bản địa.