Giáo lý dự tòng giáo phận hưng hóa năm 2024

NGÀY THƯỜNG (WEEK-DAYS): 19:00

CHÚA NHẬT (SUNDAY): 09:00; 19:00

*

Chầu MTC: Thứ Năm trước thánh lễ * * Adoration of Sacrament: before Mass on Thursday * * Giải tội trước và sau thánh lễ * * Confessions before and after Mass *

Xin gửi tới quý vị tiếp tục chương trình giáo lý dự tòng do cha Piô Ngô Phúc Hậu dẫn giải. Bài 30: Thánh Lễ

14:56 | 20/01/2019

Tại sao người trẻ nên tin vào Thiên Chúa? Khi ngồi trên ghế nhà trường, tôi thường xuyên bị chất vấn từ những người bạn về niềm tin tôn giáo của mình. Các bạn ấy có lý khi chất vấn tôi về sự hiện diện của thần linh, của Thiên Chúa. Đó không chỉ là câu hỏi của những người chất vấn tôi mà trên hết đó còn là sự hoài nghi của chính tôi.

13:48 | 30/11/2018

Xin gửi tới quý độc giả bải tiếp theo trong chương trình giáo lý dự tòng do linh mục Piô Ngô Phúc Hậu dẫn gải

21:05 | 20/11/2018

Xin gửi tới quý độc giả bài tiếp theo của chương trình giáo lý dự tòng do linh mục Piô Ngô Phúc Hậu dẫn giải

16:27 | 22/10/2018

Xin gửi tới quý độc giả bài tiếp theo của chương trình giáo lý dự tòng do linh mục Piô Ngô Phúc Hậu dẫn giải.

08:33 | 08/10/2018

Xin gửi tới quý độc giả bài tiếp theo của chương trinh giáo lý Dự tòng do linh mục Piô Ngô Phúc Hậu dẫn giải

18:15 | 12/09/2018

Xin gửi tới cộng đoàn bài tiếp theo của chương trình giáo lý dự tòng do linh mục Piô Ngô Phúc Hậu dẫn giải

14:34 | 27/08/2018

Xin gửi tới cộng đoàn bài tiếp theo của chương trình giáo lý dự tòng do linh mục Piô Ngô Phúc Hậu dẫn giải

07:09 | 20/08/2018

Xin gửi tới cộng đoàn chương trình giáo lý dự tòng bài tiếp theo do linh mục Piô Ngô Phúc Hậu dẫn giải.

III. THÔNG CÁO CỦA CÁC GIÁM MỤC VỀ LỄ NGHI TÔN KÍNH ÔNG BÀ TỔ TIÊNGợi ý cầu nguyện: Ta hãy tuyên xưng niềm tin vào Lời trong pho Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước chính là Lời Chúa. Xin ơn để ta năng đọc và suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa trở nên của ăn tâm linh nuôi sống linh hồn ta. Đọc kinh Sáng danh.

Câu hỏi Câu 1: Lời Chúa mạc khải trong 46 văn phẩm Cựu Ước là qua các ngôn sứ, còn Lời Chúa trong 27 văn phẩm Tân Ước là do ai mạc khải và do ai truyền lại? Câu 2: Có mấy thánh tông đồ ghi lại các sách Tân Ước, đó là những cuốn sách nào? Còn những cuốn khác thì do ai ghi lại và ghi theo lời ai truyền? Câu 3: Trong Tân Ước có 4 sách nào quan trọng nhất, vì sao? Có sách nào là sách tiên tri trong Tân Ước, do ai chép lại và nói về vấn đề gì? Câu 4: Tân Ước ghi lại Giao Ước Mới, ai giao ước với ai? Bạn hãy so sánh Tân Ước và Cựu Ước dựa theo sơ đồ ghi trên bảng đối chiếu?

Bài 19 CHÚA GIÊSU TRAO CHO HỘI THÁNH BẢY PHÉP BÍ TÍCH

Dẫn nhập Để tiếp tục sứ mệnh rao giảng và thánh hoá muôn dân, Đức Giêsu đã trao ban cho Hội Thánh hai phương thế hữu hiệu để họ chu toàn. Hai bài trước, chúng ta đã tìm hiểu phương thế thứ nhất là Lời Mạc Khải của Thiên Chúa được chứa đựng trong kho tàng Kinh Thánh. Bài này, chúng ta tiếp tục đi vào phương thế thứ hai mà Đức Kitô trao cho Hội Thánh là các Bí tích. Gợi ý cầu nguyện đầu giờ: Cầu xin Đức Giêsu ban cho ta ơn thấu hiểu các Bí tích mà Ngài đã lập. Đây thực sự là máng thông truyền ơn thiêng cho con người. Đọc kinh Sáng soi. 1. Con số các Bí tích Bảy Bí tích Đức Giêsu đã thiết lập chính là phương thế thứ hai để thánh hoá nhân loại, nó rất cần thiết cho con người. (giới thiệu kinh bảy phép Bí tích). Bảy Bí tích do chính Đức Giêsu thiết lập. Tuy trong Kinh Thánh không nói rõ hết về bảy Bí tích đó, nhưng đã có trong truyền thống của Hội Thánh từ thời các tông đồ. Điều đó dễ hiểu, vì như lời thánh Gio-an viết cuối sách Tin Mừng của ngài: “Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21,25). Thế nhưng tại sao Ngài lại chỉ lập bảy Bí tích mà không lập nhiều hơn nữa? Vì bảy Bí tích tương đương với 5 giai đoạn của cuộc sống cá nhân và 2 nhu cầu của đời sống cộng đoàn:

  1. Năm giai đoạn chính của cuộc sống cá nhân  Sinh ra ó Bí tích Thánh Tẩy. ‚ Lớn lên ó Bí tích Thêm Sức. ƒ Dinh dưỡng ó Bí tích Thánh Thể. „ Chữa bệnh ó Bí tích Hòa Giải. … Lâm tử ó Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân.
  2. Hai nhu cầu chính của đời sống xã hội † Lãnh đạo cộng đoàn ó Bí tích Truyền Chức. ‡ Xây dựng gia đình ó Bí tích Hôn Phối. 2. Ý nghĩa và mục đích Bí tích là dấu chỉ. Tích là dấu tích bề ngoài hữu hình. Bí là bí nhiệm, ý chỉ những thực tại thiêng liêng. Ta đã học biết Đức Kitô là dấu chỉ của Thiên Chúa Cha, Hội Thánh là dấu chỉ của Đức Kitô. Bảy Bí tích không những là dấu chỉ hữu hình để chỉ thực tại thiêng liêng vô hình, mà còn sinh ơn thiêng liêng trong linh hồn người lĩnh nhận Bí tích. Dấu chỉ: có tính chất biểu tượng. Dấu chỉ là một thứ ngôn ngữ biểu tượng (tượng hình). Ngày nay, với khoa học tiên tiến lại càng sử dụng ngôn ngữ biểu tượng nhiều. Ra đường, ta gặp thấy rất nhiều dấu chỉ trong mọi lãnh vực khác nhau. Thí dụ như ký hiệu giao thông chẳng hạn … Trong cuộc sống đời thường, ta cũng thấy có những dấu chỉ để chỉ những thực tại thiêng liêng vô hình. Chẳng hạn như: hình trái tim dùng để chỉ tình yêu, hay lá cờ quốc kỳ là dấu chỉ hồn của một đất nước … (bình thường nó chỉ là tấm vải, nếu cứ gập để trong hòm sẽ không có giá trị gì, nhưng nếu treo lên theo nghi thức thì hết mọi người đều phải nghiêng mình bái phục…). Bí tích chính là dấu chỉ loại này. Đức Giêsu đã dùng những yếu tố hết sức thực tế (nước, bánh , rượu, dầu …) trong đời thường làm dấu chỉ các Bí tích, từ những thứ chúng ta nhìn thấy để chỉ những điều ta không nhìn thấy như: dùng nước để làm dấu chỉ rửa sạch, tái sinh. Dấu chỉ của Bí tích không những “chỉ” mà còn “sinh ơn thiêng liêng”. Thí dụ Bí tích Thánh Tẩy: nước lã không chỉ rửa sạch bên ngoài mà còn tẩy sạch tội lỗi bên trong linh hồn người lĩnh nhận. Đã là dấu chỉ thì phải có quy định rõ ràng và phải thống nhất với nhau. Thí dụ: Lá Quốc Kỳ là hồn của non nước thì phải được Quốc hội nước đó quy định và truyền phải dùng đúng theo quy ước đó. Dấu chỉ của Bí tích cũng đã được Đức Kitô quy định cách rõ ràng và truyền phải tuân giữ y như vậy, không được thay đổi vì bất cứ lý do gì. Thí dụ: Chúa Giêsu truyền phải dùng nước lã trong Bí tích Thánh Tẩy, ta không thể lấy cồn để rửa cho sạch hơn được. Làm thế sẽ không thành hiệu vì không làm đúng theo lệnh truyền của Đức Kitô. Một thí dụ khác: xưa các vị vua chúa quen dùng một đồng tiền bẻ đôi, mỗi bên giữ một nửa. Khi sai sứ giả đi giao dịch với nhau, thì đem nửa đồng tiền đó đi, để làm dấu chỉ đích thực là người đối tác với mình. Vậy nếu đã cùng lấy đồng tiền nào làm dấu chỉ, thì không thể thay dấu chỉ khác tuỳ tiện được. Chúa lập Bí tích như là cầu nối giữa thế giới hữu hình và vô hình. Bí tích chính là cầu nối bắc từ bờ hữu hình này sang bờ bên kia là thế giới thiêng liêng vô hình. Nhờ đó, ta mới từ cõi hữu hình vật chất mà liên hê được với cõi thiêng liêng. Bí tích còn là như kênh chuyển hệ, để chuyển từ hệ thiêng liêng sang hữu hình. Thí dụ: Đài phát thanh hay đài truyền hình phát sóng truyền thông thì cần phải có hệ thống máy móc làm kênh chuyển hệ từ hệ “điện từ “ sang hệ “sóng âm”, thì tai chúng ta mới có thể nghe được sóng âm (trong máy truyền thanh); hoặc chuyển từ hê sóng điện từ sang sóng ánh sáng thì mắt chúng ta mới thấy được sóng ánh sáng đó (trong máy truyền hình). Các Bí tích trong đạo là những kênh chuyển hệ rất cần thiết. Bởi lẽ, Chúa và các ơn của Ngài là thiêng liêng, mà con người chúng ta là người trần mắt thịt, không cảm nhận được những thực tại thiêng liêng. Do đó, Chúa Giêsu phải thiết lập những dấu chỉ cụ thể, để cho ta nhận ra sự hiện diện của Chúa và biết ta đã lĩnh nhận được ơn của Ngài. Thí dụ: Tôi ngửa mặt lên trời xin Chúa tha tội, tôi không biết có được Chúa tha tội không. Nhưng qua dấu chỉ Bí tích Giải tội cụ thể, tôi thấy linh mục thay mặt Chúa đọc lời “Cha tha tội cho con …” thì tôi mới biết chắc mình được khỏi tội. Cuối cùng, Bí tích cũng là điểm hẹn để từ đó Thiên Chúa đến gặp gỡ con người và con người được gặp gỡ Thiên Chúa. Thông thường, muốn gặp Chúa và lĩnh nhận các ơn của Ngài, ta phải qua việc lĩnh nhận Bí tích. Kết luận Bí tích là phương thế cần thiết mà Hội Thánh phải thi hành để chu toàn sứ mệnh là thánh hoá loài người thể theo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Phần mỗi người, muốn được cứu độ phải lĩnh nhận Bí Tích như là phương thế cần thiết và hữu hiệu. Gợi ý cầu nguyện: Cảm tạ Chúa Giêsu đã lập các Bí tích là phương thế cho ta gặp được Chúa và lĩnh nhận các ơn thiêng của Ngài. Xin ban ơn cho ta biết năng lĩnh nhận các Bí tích để được sống mạnh mẽ trong đời sống thiêng liêng. Đọc kinh Sáng danh.

Câu hỏi Câu 1: Tại sao chỉ có bảy Bí tích trong Hội Thánh? Do ai lập? Do đâu mà biết điều đó, vì Kinh Thánh không nói hết? Câu 2: Bí tích là gì? Trong Bí tích, có phần hữu hình, có phần thiêng liêng, hãy diễn giải từng phần đó? Cho thí dụ áp dụng vào Bí tích Thánh Tẩy. Câu 3: Tại sao nói Bí tích như là cầu nối giữa thế giới hữu hình và vô hình, như kênh chuyển hệ? Cho những thí dụ trong đời thường để minh họa. Câu 4: Hãy giải thích Bí tích cũng là điểm hẹn để Thiên Chúa đến gặp gỡ con người và con người gặp gỡ Thiên Chúa? Vậy việc lĩnh nhận Bí tích có cần thiết không?

Bài 20 BA BÍ TÍCH KHAI TÂM KITÔ GIÁO

Dẫn nhập Bài trước, chúng ta đã tìm hiểu ý nghĩa và mục đích của các Bí tích, do Chúa Giêsu đã lập. Trong bài này, chúng ta cùng tìm hiểu ba Bí tích gia nhập Đạo Chúa là: Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể, hay còn gọi là ba Bí tích Khai tâm Kitô Giáo. Gọi là Bí tích Khai tâm, vì là Bí tích đầu tiên khai mào vào đời sống thiêng liêng như người học lớp vỡ lòng trong chương trình học văn hoá. Sau đó, chúng ta sẽ tìm hiểu các Bí tích khác. Gợi ý cầu nguyện đầu giờ: Xin Chúa Thánh Thần ban ơn soi sáng, để ta hiểu được ý nghĩa và ơn ích của các Bí tích mà Hội Thánh cử hành. Đọc kinh Sáng soi.

  1. Bí tích Thánh Tẩy (tương ứng với giai đoạn con người sinh ra) Đây là Bí tích quan trọng nhất tuy không phải là cao trọng nhất. Chúa Giêsu đã nói: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh lại bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5). Bí tích Thánh Tẩy là Bí tích Chúa Giêsu đã lập để tái sinh ta trong đời sống mới (thiêng liêng) bởi nước và Thánh Thần. 1. Dấu chỉ bề ngoài Dùng nước tự nhiên (nước sông, nước biển, nước giếng, nước mưa) đổ nước trên đầu người dự tòng (nước phải chảy ướt trên da trán) hoặc dìm họ xuống nước và đọc rằng: T… Tôi rửa ông (bà, anh, chị … ) Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần (vì có nghi thức đổ nước nên còn gọi Bí tích này là phép đổ nước). 2. Công hiệu - Hiệu quả của Bí tích này chính là được khỏi tình trạng mất ơn nghĩa với Thiên Chúa do tội nguyên tổ để lại và được ơn phúc làm con cái Chúa (nêu thí dụ minh hoạ tội nguyên tổ: tình trạng nghèo khổ bố mẹ để lại cho con cái, do bởi lỗi của bố mẹ ăn chơi trác táng phá hết gia tài …). - Ngoài ra còn được tha các tội riêng đã phạm nếu là người lớn lĩnh Bí tích Thánh Tẩy. Vì thế, nên còn gọi là phép Rửa tội. Tuy nhiên, gọi là phép Rửa tội thì không chuẩn, dễ gây hiểu nhầm. - Được tháp nhập vào Hội Thánh là thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô tức là được nên một với Ngài. - Được tham dự vào ba chức vụ: Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Đức Kitô. Được trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần, vì được Ngài ngự trong linh hồn. - Được khử trừ khỏi quyền lực ma quỉ qua việc xức dầu trừ tà, trong nghi thức lĩnh Bí tích khai tâm Kitô Giáo. - Được ký kết Giao Ước Mới với Đức Kitô và được dấu ấn thiêng liêng ghi khắc vào linh hồn không bao giờ mất. Cho nên người dự tòng phải suy nghĩ cân nhắc cho kỹ trước khi lĩnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. (câu chuyện vua Julianô bỏ đạo). - Khi đã lĩnh nhận Bí tích Thánh Tẩy thì Thiên Chúa vĩnh viễn nhận ta làm con của Ngài, và không bao giờ Ngài bỏ ta nữa. Dù ta có phản bội với Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn không bỏ, Ngài tiếp tục theo đuổi, có khi đánh phạt để ta biết trở về với Ngài mới thôi. - Khi lĩnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, được trở thành con Chúa thì ta hoàn toàn yên tâm. Khi chết, ta được về nhà Chúa là Nước Trời. Nơi đó, có đầy đủ mọi thứ, không cần phải lo ai cúng giỗ kẻo trở thành ma đói, ma khát về quấy thiên hạ. Mặt khác, khi gia nhập Hội Thánh, ta thuộc về một gia đình vĩ đại khoảng hai nghìn triệu người tin Chúa Kitô, luôn cầu nguyện cho nhau, không phải lo lẻ loi cô độc. 3. Thừa tác viên cử hành Thông thường là những thừa tác viên có chức thánh: giám mục, linh mục và phó tế. Còn trong trường hợp khẩn cấp (nguy tử) thì bất cứ người nào cũng được cử hành (kể cả người ngoài Kitô Giáo), miễn là họ làm theo đúng ý và cách thức của Hội Thánh chỉ dạy. 4. Điều kiện lĩnh thụ Bí tích này là Bí tích Đức tin nên phải có đức tin thì lĩnh nhận mới thành sự. Đối với người lớn, phải dạy cho họ hiểu và tin những điều cần thiết; đồng thời họ phải thành tâm muốn lĩnh nhận. Trước khi lĩnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, người lĩnh thụ phải tuyên bố từ bỏ ma quỉ, tội lỗi và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi (nhắc học kinh Tin kính). Bởi vì, lĩnh nhận Bí tích Thánh Tẩy là tự nguyện ký kết Giao Ước với Thiên Chúa. Đối với trẻ nhỏ, người đỡ đầu tuyên xưng đức tin thay cho các em và có trách nhiệm giáo dục đức tin cho đến khi các em tới tuổi khôn lớn. Bởi đó, trách nhiệm của người đỡ đầu rất quan trọng. Ta cần có mối quan hệ mật thiết với cha mẹ đỡ đầu. Khi linh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, người lĩnh thụ còn được nhận một Thánh hiệu (tên thánh) là danh hiệu mới xứng với địa vị mới là con Thiên Chúa. Truyền thống xưa nay thường lấy tên một vị Thánh của Hội Thánh để đặt cho người tân tòng, với dụng ý là nhận vị Thánh đó là Đấng Bảo Trợ (Quan Thầy) cho mình. II. Bí Tích Thêm Sức (tương xứng với giai đoạn lớn lên, trưởng thành của một con người) 1. Dấu chỉ bề ngoài Việc đặt tay cầu xin bảy ơn Chúa Thánh Thần của thừa tác viên và dùng dầu (Ô-liu) đã được thánh hiến gọi là Dầu Thánh (SC) xức trên trán người lĩnh thụ Bí tích, kèm theo lời đọc: “T…. Hãy lĩnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần”. Bí tích này, ghi ấn tích thiêng liêng không bao giờ mất, nên chỉ lĩnh nhận một lần. 2. Công hiệu Người lĩnh nhận được tràn đầy Chúa Thánh Thần, trở thành người tín hữu trưởng thành, can đảm xưng đạo thánh Đức Chúa Trời ra trước mặt thiên hạ, thà chết chẳng thà bỏ Đạo (biến cố lễ Ngũ Tuần nơi các tông đồ x.Cv 2,1-40). 3. Thừa tác viên cử hành Thừa tác viên thông thường là đức giám mục, linh mục chỉ là thừa tác viên ngoại lệ khi được đức giám mục uỷ quyền. 4. Điều kiện lĩnh thụ Để được lĩnh thụ Bí tích Thêm sức, người lĩnh nhận phải có những điều kiện sau: + Đã lĩnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. + Đã đến tuổi khôn (7 tuổi). + Phải học hiểu giáo lý. + Sạch tội trọng. + Phải có người đỡ đầu (thường là người đã đỡ đầu cho đương sự khi lĩnh thụ phép Thánh Tẩy). + Phải có lòng ước muốn (nếu là người lớn). III. Bí tích Thánh Thể (ứng với của ăn nuôi sống trong đời sống phần xác) 1. Dấu chỉ bề ngoài Bánh miến và rượu nho được dùng khi cử hành Thánh Lễ. Linh mục khẩn cầu Chúa Thánh Thần thánh hóa những lễ vật (bánh và rượu) và đọc những lời thánh hiến mà Chúa Giêsu đã nói trong bữa ăn cuối cùng (Tiệc Ly): “Này là Mình Thầy … Này là Máu Thầy ...” (x.Lc 22, 19-20; 1Cr 12, 23-25). 2. Công hiệu Nhờ việc thánh hiến, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Dưới hình bánh và hình rượu (dấu chỉ hữu hình) đã được thánh hiến, Đức Kitô đang sống trong vinh quang, nhưng còn hiện diện cách thực sự và toàn vẹn cùng với linh hồn và thần tính của Ngài, để ở với Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế và nên của ăn nuôi linh hồn tín hữu. 3. Thừa tác viên cử hành Chỉ các giám mục, linh mục (Tư tế) mới có thể chủ sự thánh lễ tạ ơn và thánh hiến bánh rượu trở nên Mình-Máu Thánh Chúa Kitô. 4. Điều kiện lĩnh thụ + Phải là người đã lĩnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. + Phải có lòng tin thật Chúa Giêsu ngự trong hình bánh và hình rượu. Vì thế, khi đưa Bánh Thánh cho chúng ta lĩnh nhận, thừa tác viên đọc: “Mình Thánh Chúa Kitô” thì ta thưa “Amen”, nghĩa là “thật như vậy”. + Phải ở trong tình trạng ân sủng, nghĩa là phải sạch tội trọng. Ai mắc tội trọng nếu muốn rước Chúa Kitô thì phải lĩnh Bí tích Hòa Giải trước. Kết luận Chúng ta vừa tìm hiểu về ba Bí tích Khai tâm Kitô Giáo. Đó là bộ ba không thể thiếu được cho người lớn muốn gia nhập Đạo Công Giáo. + Bí tích Thánh Tẩy là cửa ngõ vào Đạo Thánh Chúa. + Bí tích Thêm Sức làm cho ta lớn lên và trưởng thành trong đời sống đạo. + Bí tích Thánh Thể là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng linh hồn tín hữu. Vì vậy, chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận các Bí tích cho xứng đáng. Gợi ý cầu nguyện: Cảm tạ Chúa đã lập ba Bí tích Khai tâm để đón nhận ta vào đại gia đình Hội Thánh, làm con cái Chúa. Xin cho ta biết lấy đức tin để dọn mình xứng đáng lĩnh nhận ba Bí tích này. Đọc kinh Sáng danh.

Câu hỏi Câu 1: Bí tích Thánh Tẩy được cử hành như thế nào? Dấu chỉ bề ngoài của Bí tích này là gì, thừa tác viên chính thức là ai? Và cần điều kiện gì để lĩnh thụ? Câu 2: Hãy nói lên những hiệu quả của Bí tích Thánh Tẩy? Câu 3: Hãy diễn giải Bí tích Thêm Sức: dấu chỉ bề ngoài là gì, sinh công hiệu thiêng liêng ra sao? Điều kiện để lĩnh thụ và ai là thừa tác viên cử hành? Câu 4: Hãy diễn giải Bí tích Thánh Thể: dấu chỉ bề ngoài là gì, sinh công hiệu thiêng liêng ra sao? Điều kiện để lĩnh thụ và ai là thừa tác viên cử hành?

Bài 21 CÁC BÍ TÍCH THÁNH HOÁ ĐỜI SỐNG CÁ NHÂN VÀ CỘNG ĐOÀN

Dẫn nhập Chúng ta đã học hỏi về những dấu chỉ Chúa Giêsu đã thiết lập, để Hội Thánh làm phương thế thánh hoá và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa. Bài trước, chúng ta đã tìm hiểu về ba Bí tích Khai tâm Kitô Giáo. Trong bài này, chúng ta tiếp tục tìm hiểu 4 Bí tích còn lại, để thấy ý nghĩa, mục đích, dấu chỉ, công hiệu và điều kiện lĩnh nhận các Bí tích đó như thế nào? Gợi ý cầu nguyện đầu giờ: Xin Đức Chúa Thánh Thần ban ơn soi sáng, để ta được học hiểu ý nghĩa và ơn ích của các Bí tích Chúa Giêsu đã lập. Đọc kinh Sáng soi. ............... I. Bí tích Hòa Giải Nếu như trong cuộc sống của con người có những lúc ốm đau bệnh tật, cần phải có thuốc để chữa trị, thì trong đời sống thiêng liêng, cũng có những lần phạm tội làm đau yếu hoặc chết đi phần linh hồn. Do đó, Chúa Giêsu lập Bí tích Hòa Giải để tha tội và chữa trị bệnh tật về phần linh hồn cho ta. Nhưng ơn tha tội Chúa ban thì thiêng liêng vô hình, vậy làm thế nào để ta biết mình được ơn tha tội? Do đó, Chúa Giêsu đã cho ta một dấu chỉ cụ thể của ơn tha tội. Dấu chỉ hữu hình đó là Bí tích Hoà giải. Bí tích Hòa Giải là Bí tích Chúa Giêsu đã lập để tha các tội ta phạm từ khi lĩnh nhận Bí tích Thánh Tẩy về sau, cùng giao hòa ta với Chúa và Hội Thánh. Lời Chúa phán: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì tội người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23). 1. Dấu chỉ bề ngoài Hối nhân xưng thú tội lỗi (tội là lỗi lề luật mà Chúa đã truyền ban, phạm đến Chúa và với anh em) với linh mục và ngài đọc lời xá giải (tha tội) nhân danh Chúa Ba Ngôi mà tha tội cho hối nhân: “Thiên Chúa là Cha hay thương xót đã nhờ sự chết và sự sống lại của Con Chúa mà giao hòa thế gian với Chúa và ban Thánh Thần để tha tội. Xin Chúa dùng tác vụ của Hội Thánh mà ban cho con ơn tha thứ và bình an. Vậy Cha tha tội cho con Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần ”. Hối nhân thưa: Amen. 2. Công hiệu Được tha thứ các tội đã phạm đến Thiên Chúa, giao hòa ta với Thiên Chúa và Hội Thánh. Nhờ đó, hối nhân nhận được lại ân sủng đã mất khi phạm tội trọng. Tha hình phạt đời đời bởi các tội trọng đã phạm và ít là tha một phần hình phạt tạm thời. Ban bình an, sự thanh thản trong lòng và sự an ủi thiêng liêng. Gia tăng sức mạnh thiêng liêng cho cuộc chiến đấu của Kitô hữu, giúp cho ta thêm ơn sức chừa tội. 3. Thừa tác viên cử hành Thừa tác viên thông thường là giám mục, vì giám mục là người kế vị các thánh tông đồ đã được Đức Giêsu ban quyền tha tội (x.Ga 20,22-23). Còn linh mục thì phải được sự uỷ quyền của giám mục. Những trường hợp hối nhân nguy tử, bất cứ linh mục nào cũng được phép ban Bí tích Hoà giải, kể cả linh mục đã hồi tục. Sở dĩ, giám mục và linh mục tha được tội, vì được Chúa uỷ quyền, và tha tội nhân danh Thiên Chúa. Cũng như vị chánh án toà án nhân dân được nhà nước uỷ quyền nên có thể kết án hoặc tha cho phạm nhân. 4. Người lĩnh thụ Bất cứ tín hữu nào (đến tuổi khôn) có tội và có lòng muốn đều có thể lĩnh Bí tích này. 5. Điều kiện lĩnh thụ + Đã lĩnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. + Xét mình xem có phạm tội nào lỗi Mười điều răn của Chúa và Sáu điều răn của Hội Thánh không? Để thành tội thì phải lỗi điều gì có luật cấm, biết rõ có luật mà cố tình phạm. + Thống hối ăn năn và dốc lòng chừa (giải nghĩa ăn năn tội cách trọn và ăn năn tội cách chẳng trọn). + Phải nhận thấy mình là kẻ có tội và xưng thú hết tội của mình với cha giải tội (cách thức xưng tội sẽ hướng dẫn sau). + Phải làm việc đền tội theo như cha giải tội đã dạy (đền bù những thiệt hại mình đã gây nên). Như vậy, khi lĩnh nhận Bí tích Hòa Giải, ta được tha thứ các tội đã phạm, được giao hòa với Chúa và Hội Thánh, được bình an và thêm lòng yêu mến Chúa hơn. II. Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân Trước giờ lâm tử sang cõi sống bên kia, người ta cảm thấy lo sợ trước vận mạng của mình. Đối với người Kitô hữu, đây là giờ quyết định cuối cùng để được thưởng hay phải phạt đời đời. Đó là lý do mà mọi người phải khiếp sợ khi đối diện với sự chết. Vì thế, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Xức Dầu để ban ơn nâng đỡ, thêm sức và ủi an họ vững tin vào Chúa trong những giờ phút đó. 1. Dấu chỉ bề ngoài Dùng dầu (OI) đã được thánh hiến (do đức giám mục làm phép trong thánh lễ sáng Thứ Năm Tuần Thánh) xức trên trán và hai bàn tay người lĩnh thụ, kèm theo lời cầu nguyện của linh mục để cầu xin ân sủng đặc biệt của Bí tích này cho người chịu phép. 2. Công hiệu Để được ơn sức mạnh thiêng liêng chống lại sự cám dỗ của ma quỉ trong giờ lâm tử. Được ơn an ủi, bình an và can đảm chịu đau khổ để kết hợp sự đau khổ của mình với sự thương khó của Đức Kitô trên Thánh giá và có giá trị cứu chuộc. Được phục hồi sức khỏe nếu điều đó giúp ích cho ơn cứu độ của thụ nhân. Cùng với Bí tích Xức Dầu, bệnh nhân rước lễ như của ăn đàng (cắt nghĩa của ăn đàng), để được sức mạnh mà chuẩn bị bước vào cõi sống đời đời (nhắc tới thói quen của người đời vẫn để của ăn cho người lâm tử). 3. Thừa tác viên cử hành Giám mục và linh mục. 4. Điều kiện lĩnh nhận Là tín hữu lâm bệnh nặng hoặc già yếu: + Nếu có tội trọng thì phải lĩnh Bí tích Hòa Giải trước. + Phải lo liệu cho thụ nhân lĩnh nhận khi còn tỉnh táo để họ ý thức lĩnh nhận được ơn ích của Bí tích này. III. Bí tích Hôn Phối Hôn nhân gia đình là một định chế do Thiên Chúa thiết lập ngay từ khi tạo dựng con người (x.St 1,27; 2,24). Tuy nhiên, qua dòng thời gian con người đã làm phai mờ đặc tính của hôn nhân: một vợ một chồng và bất khả phân ly (x.Mc 10,8-9). Cho nên, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Hôn Phối để thiết lập lại định chế đó theo đúng ý định ban đầu của Thiên Chúa. Bí tích Hôn Phối là Bí tích do Chúa Giêsu đã lập để kết hợp hai người tín hữu, một nam một nữ thành vợ chồng trước mặt Chúa và Hội Thánh, cùng ban cho họ ơn sống xứng với đấng bậc mình. Chính Chúa Giêsu đã đến dự tiệc cưới tại Ca-na, để chúc lành cho đôi hôn nhân qua dấu lạ Ngài làm cho nước lã trở thành rượu ngon (x.Ga 2,1-12). Đối với xã hội, phải đăng ký kết hôn để được pháp luật công nhận và được bảo vệ. Đối với gia tộc, phải có tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Còn trong Hội Thánh, phải có nghi thức chứng hôn (làm phép cưới) theo thể thức của Hội Thánh mới trở thành vợ chồng trước mặt Chúa và trước mặt gia đình Hội Thánh mà mình là phần tử. Vì là tín hữu thì ta thuộc về một đại gia đình khoảng hai nghìn triệu người trên thế giới đó là Hội Thánh Kitô Giáo. Cho nên khi thành hôn, ta cũng phải theo nghi thức của Hội Thánh. Lễ thành hôn trước Hội Thánh không nguyên chỉ là thủ tục, mà còn là Bí tích ban ơn, thêm sức thiêng liêng cho ta sống đời hôn nhân cho hợp ý Thiên Chúa, nên thánh thiện và hạnh phúc. Đối với người Công Giáo, việc làm phép cưới ở nhà thờ được mọi người rất coi trọng, mặc dù chưa có thủ tục dân sự hay chưa tổ chức ở gia đình thì họ đã là vợ chồng. Đặc tính của hôn nhân Công Giáo đòi hỏi phải một vợ một chồng và bất khả phân ly. Điều kiện thành sự Bí tích Hôn Phối  Cả đôi bên nam-nữ, phải tự do ưng thuận và tuyên bố rõ ràng sự ưng thuận cách công khai trong nghi lễ. ‚ Không mắc ngăn trở hôn nhân (khác đạo, họ máu, họ kết bạn…). ® Theo thể thức luật định. IV. Bí tích Truyền Chức Thánh Trong xã hội phải có những người lãnh đạo, điều hành thì xã hội mới có trật tự, văn minh. Trong Hội Thánh cũng cần phải có những người đại diện Chúa để lãnh đạo và điều khiển cộng đoàn Dân Chúa. Vì thế, Chúa đã lập Bí tích Truyền Chức để thánh hoá một số người làm trung gian giữa Thiên Chúa và Dân Người. Nghi thức truyền chức: Giám mục đặt tay trên đầu người lĩnh nhận và đọc lời thánh hiến. Qua đó, Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên các vị tân chức và ban ơn cho các vị đó được thi hành tác vụ theo chức vị của mình. Giám mục là người được kế vị các tông đồ, có chức tư tế sung mãn; chức tư tế của linh mục phụ thuộc giám mục. Phó tế là người giúp việc tế lễ, rao giảng Lời Chúa và thực thi bác ái. Kết luận Chúng ta đã tìm hiểu bảy Bí tích Chúa Giêsu đã lập làm phương thế cho Hội Thánh, để thánh hóa chính mình và thánh hóa muôn dân thành môn đệ của Chúa. Bốn Bí tích chúng ta vừa nghe là dấu chỉ để con người gặp gỡ Thiên Chúa và Thiên Chúa gặp gỡ con người. Qua đó, Chúa ban ơn, chữa lành, chúc phúc cho con người, giúp cho Hội Thánh chu toàn bổn phận sống xứng đáng là con Chúa ở đời này và đời sau. Ý thức như vậy, chúng ta tin tưởng và năng lĩnh nhận các Bí tích để được Chúa nâng đỡ ủi an. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, đặc biệt sẵn sàng gặp gỡ chúng ta qua dấu chỉ các Bí tích. Thấy được ý nghĩa và mục đích cao cả như vậy, mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn sốt sáng để lĩnh nhận Bí tích cách xứng đáng. Gợi ý cầu nguyện: Cảm tạ Chúa Giêsu đã lập các Bí tích, để ban muôn ơn thiêng liêng cho chúng ta. Xin cho chúng ta lấy đức tin mà siêng năng lĩnh nhận các Bí tích để được sống đời đời. Đọc kinh Sáng danh. Câu hỏi Câu 1: Hãy diễn giải Bí tích Hòa Giải: dấu chỉ bề ngoài là gì, sinh công hiệu thiêng liêng ra sao? Điều kiện để lĩnh thụ và ai là thừa tác viên ban Bí tích? Câu 2: Hãy diễn giải Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân: dấu chỉ bề ngoài là gì, sinh công hiệu thiêng liêng ra sao? Điều kiện để lĩnh thụ và ai là thừa tác viên cử hành? Câu 3: Ai là người được lĩnh nhận Bí tích Truyền Chức Thánh: dấu chỉ bề ngoài là gì, sinh công hiệu thiêng liêng ra sao? Điều kiện để lĩnh thụ và ai là thừa tác viên cử hành? Câu 4: Hãy diễn giải Bí tích Hôn Phối: dấu chỉ bề ngoài là gì, sinh công hiệu thiêng liêng ra sao? Điều kiện để lĩnh thụ và ai là thừa tác viên cử hành?

Bài 22 SINH HOẠT CỦA HỘI THÁNH TRONG THẾ GIỚI

Dẫn nhập Chúa Giêsu xuống thế để cứu chuộc con người. Ngài đã hoàn thành sứ vụ Chúa Cha trao phó; chịu Tử Nạn, Phục Sinh và Lên Trời. Ngài đã lập Hội Thánh trên nền tảng các tông đồ, để tiếp tục chương trình cứu độ mãi cho đến tận thế. Ngài trao cho Hội Thánh những phương thế cần thiết để thực thi sứ vụ được trao phó. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu sinh hoạt của Hội Thánh trong thế giới như thế nào, để thực thi sứ vụ Đức Kitô trao cho. Gợi ý cầu nguyện đầu giờ: Xin Chúa Thánh Thần ban ơn soi sáng, để ta hiểu biết ý nghĩa và ơn ích của các việc đạo đức theo truyền thống Hội Thánh để lại. Đọc kinh Sáng soi.

  1. Sứ vụ của Hội Thánh Chúa Giêsu đã trao cho Hội Thánh hai nhiệm vụ: rao giảng Tin Mừng và thánh hóa muôn dân, làm cho họ trở nên một đoàn chiên theo một Chúa Chiên. Hội Thánh dùng hai phương thế Chúa trao, là kho tàng mạc khải Lời Chúa và các Bí tích, để chu toàn sứ mệnh của mình. Theo truyền thống của Hội Thánh từ thời các tông đồ, ai gia nhập đạo đều được trao cho sứ mệnh rao giảng, thánh hóa thế giới và chính mình, thực hiện Giao Ước Mới đã ký kết lúc lĩnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Sứ vụ đó có tính cách cộng đồng. Hoạt động với tính cách cộng đồng là một đòi hỏi của tôn giáo, thể hiện niềm tin một cách công khai (Hội Thánh đòi hỏi Nhà nước quyền tự do tôn giáo, chứ không phải chỉ quyền tự do tín ngưỡng, vì tín ngưỡng có tính cách cá nhân hơn là cộng đồng), thực hiện qua các hoạt động với hai chiều kích: cá nhân và cộng đoàn. II. Sinh hoạt của Hội Thánh Khi lĩnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu được tham dự vào ba chức vụ: Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Đức Kitô cả trong chiều kích cá nhân cũng như cộng đoàn. Vì thế, mỗi tín hữu tuỳ theo phận vụ mà thực thi sứ mạng Đức Kitô trao phó trong đời sống của mình, trên cả hai bình diện cộng đoàn và cá nhân. 1. Sinh hoạt cộng đoàn
  2. Thể hiện chức năng Tư tế Hội Thánh cử hành các buổi Phụng vụ, rao giảng và phân phát ơn Chúa qua các Bí tích để thánh hoá con người. Niên lịch phụng vụ quan trọng nhất là chu kỳ ngày Chúa nhật. Trong các cử hành Phụng vụ thì đỉnh cao là thánh lễ. Trong thánh lễ gồm có Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh thể: + Phụng vụ Lời Chúa: công bố Lời Chúa trong Kinh Thánh cho cộng đoàn phụng vụ, làm lương thực nuôi dưỡng linh hồn tín hữu. + Phụng vụ Thánh thể: tái diễn lại hy tế của Đức Kitô trên thập giá bằng cách thánh hiến bánh và rượu trở thành Thịt và Máu Đức Kitô làm lương thực nuôi dưỡng linh hồn tín hữu. Thánh Lễ được cử hành đặc biệt vào ngày Chúa nhật. Ngày đó, mọi thành phần của cộng đồng giáo xứ phải đến nhà thờ để cùng dâng lễ. Cộng đoàn nghe Lời Chúa qua các bài đọc Kinh Thánh. Mỗi người đồng dâng lễ với Đức Kitô bằng cách dâng những hy sinh hằng ngày trong đời thường, kết hợp với lễ hy sinh của Đức Giêsu trên Thánh giá và nay tái diễn trên bàn thờ.
  3. Thể hiện chức năng Vương đế Hội Thánh tổ chức các guồng máy cai trị và điều hành từ trung ương đến địa phương (từ Toà Thánh cho tới các giáo phận). Lưu ý: khác với việc cai trị ở trần gian, việc cai trị trong Hội Thánh chính là phục vụ theo tinh thần của Đức Kitô: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,26-28). Mỗi người phải có nghĩa vụ tích cực cộng tác vào chức năng Vương đế bằng cách tuân hành, hợp một lòng, một ý hành động theo chỉ đạo của các đấng bậc trong Hội Thánh.
  4. Thể hiện chức năng Ngôn sứ Việc rao giảng, truyền đạt Lời Chúa cho muôn dân từ trung ương đến địa phương được tổ chức thành các bộ ban. Công cuộc truyền giáo của Hội Thánh đồng thời hướng tới với ba chiều kích: dài, rộng, cao. + Chiều cao (sâu): Đào sâu kiến thức giáo lý cho cộng đoàn cũng như cá nhân mỗi người. + Chiều dài (dọc): Thế hệ trước có bổn phận truyền lại cho thế hệ sau (ông bà = > cha mẹ => con cái => … ) qua giáo dục Kitô Giáo. + Chiều rộng (ngang): Rao giảng Tin Mừng cho hết mọi người ở mọi nơi và mọi thời, không chỉ cho người Kitô mà ưu tiên cho những người chưa biết Chúa. Để thể hiện bản chất truyền giáo của Hội Thánh, mỗi người tín hữu phải tích cực tham gia vào các tổ chức hoạt động truyền giáo từ trung ương (Toà Thánh) đến địa phương (Giáo phận, Giáo xứ). 2. Sinh hoạt cá nhân
  5. Thể hiện chức năng Tư tế Mỗi tín hữu tham dự Thánh lễ với cộng đoàn nhất là ngày Chúa nhật. Cầu nguyện, hiến dâng mình cho Thiên Chúa, gặp gỡ tâm giao với Chúa trong đời sống nội tâm của mình. Trong các kinh đọc khi cầu nguyện thì kinh Lạy Cha là kinh trọng nhất vì kinh này do chính Đức Giêsu đã dạy các tông đồ cầu nguyện (x.Mt 6,7-13). Giới thiệu học kinh Lạy Cha (giải nghĩa bảy lời trong kinh đó, để người dự tòng hiểu nội dung cầu nguyện theo mẫu Chúa dạy).
  6. Thể hiện chức năng Vương đế Trước hết, mỗi tín hữu làm chủ bản thân: sửa trị nết xấu, hãm mình đền tội, chay tịnh, sám hối (giới thiệu học kinh Ăn Năn Tội và năng lĩnh nhận Bí tích Hoà giải). Điều hành chính gia đình của mình, dạy dỗ con cháu theo lề luật Chúa. Tham gia vào các cơ cấu quản trị của Hội Thánh từ địa phương đến toàn cầu … Đặc biệt qua việc thực thi bác ái bằng nhiều cách khác nhau (quỹ bác ái, thực thi theo nội dung kinh Mười bốn mối … giới thiệu và giải nghĩa kinh này).
  7. Thể hiện chức năng Ngôn sứ Để thực hiện truyền giáo chiều sâu cho chính mình, mỗi tín hữu hằng ngày phải đọc và suy niệm Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước (giới thiệu đọc Lời Chúa theo lịch phụng vụ). Tích cực tham gia vào các hoạt động truyền giáo của Hội Thánh tuỳ theo khả năng và điều kiện có thể: bằng việc làm cụ thể, bằng lời nói trực tiếp với các cá nhân và bằng cách gián tiếp là góp tiền của hỗ trợ cho việc truyền giáo. Việc truyền giáo quan trọng nhất là bằng đời sống chứng tá của mình, làm gương sáng lôi cuốn người khác. Kết luận Ngay từ ngày Hội Thánh lĩnh nhận sứ mạng mà Đức Kitô trao phó cho các tông đồ, Hội Thánh luôn thi hành lệnh truyền của Chúa với cả hai chiều kích: cộng đoàn và cá nhân cho tới nay đã được hơn 20 thế kỷ. Hội Thánh đã thiết lập nên những tổ chức giúp con người thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới. Để thực hiện điều đó, Hội Thánh đã đưa ra những quy luật gọi là luật Hội Thánh hướng dẫn ta thực thi Giao Ước Mới và chu toàn bổn phận Chúa trao. Cụ thể, một bản luật vắn tắt gồm trong kinh Điều luật Hội Thánh (giải nghĩa kinh này). Gợi ý cầu nguyện: Xin cho ta được tích cực tham gia các sinh hoạt sống đạo cùng với mọi thành phần trong Hội Thánh. Đọc kinh Sáng danh.

Câu hỏi Câu 1: Sinh hoạt của Hội Thánh vừa có chiều kích cá nhân, vừa có chiều kích cộng đoàn. Hội Thánh thể hiện chức năng Tư Tế, Vương Đế và Ngôn Sứ theo chiều kích cộng đoàn như thế nào? Câu 2: Mỗi người tín hữu thể hiện chức năng Tư Tế, Vương Đế và Ngôn Sứ trong Hội Thánh theo chiều kích cá nhân như thế nào? Câu 3: Từ ngày Chúa Giêsu lập Hội Thánh và trao cho sứ mệnh tới nay, Hội Thánh đã thiết lập những tổ chức nào và đưa ra những qui luật nào để thực thi sứ vụ Chúa trao phó?

Bài 23 LỊCH SỬ HƠN 2000 NĂM CỦA HỘI THÁNH

Dẫn nhập Hội Thánh đã thực hiện lệnh truyền của Chúa Kitô suốt hơn 2000 năm qua và còn tiếp tục thi hành mãi cho đến khi mọi người thành một đoàn chiên theo một Chúa Chiên. Nhờ đó, Hội Thánh đã phát triển tiệm tiến theo dòng lịch sử, đúng như những hình ảnh mà Chúa Kitô nói tiên tri trong dụ ngôn: Nước Trời như hạt cải là loại hạt nhỏ nhất nhưng khi cây lớn lên, chim trời đến đậu trên cành nó được (x.Mt 13,31-32). Chúng ta cùng nhau nhìn lại những chặng đường lịch sử mà Hội Thánh đã trải qua. Gợi ý cầu nguyện đầu giờ: Xin Chúa Thánh Thần ban ơn soi trí mở lòng, để ta nhận ra dấu chỉ thần linh nơi Hội Thánh qua các biến cố lịch sử trên thế giới. Đọc kinh Sáng soi. 1. Ngàn năm thứ nhất: (Kitô hóa lục địa Châu Âu) Đầu tiên Hội Thánh là nhóm Mười Hai người (Mc 3,13-19) một nhóm người dân quê ít học, phần lớn là dân chài. Khi được Chúa Giêsu tuyển chọn, các ông rất kém cỏi, nhút nhát thiển cận. Thế nhưng vào ngày lễ Ngũ Tuần, được đầy Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã mạnh dạn đi rao giảng Tin Mừng. Thánh Phê-rô giảng bài đầu tiên đã có thêm khoảng 3000 người theo đạo (x.Cv 2,1-41). Chúa Thánh Thần đã biến đổi các tông đồ trở thành những chứng nhân hùng hồn cho Chúa Giêsu Phục Sinh. Họ đã làm cho rất nhiều người theo Đạo. Trước sự kiện đó, các vị cầm quyền Do Thái lo sợ và tìm cách bắt bớ Hội Thánh. Chính Phao-lô cũng là người bách hại Hội Thánh, nhưng được Chúa gọi trở lại trên đường Đa-mát và trở thành tông đồ dân ngoại (câu chuyện Phao-lô trở lại, x.Cv 9,1-19). Cuộc bách hại tại Giê-ru-sa-lem không thể dẹp được đạo Chúa. Nhờ đó, mà các tín hữu tị nạn sang các nước lân cận, và việc truyền giáo đã lan rộng ra trong các dân ngoại. Đạo Chúa đã vượt được ranh giới hạn hẹp của dân tộc Do Thái để mở rộng ra cho muôn dân. Công Đồng đầu tiên tại Giê-ru-sa-lem năm 49, các tông đồ cho phép người ngoại trở lại đạo Chúa không phải chịu phép cắt bì của Do Thái Giáo (x.Cv 15,5-21). Nhờ cuộc cách mạng đó mà khắp thế giới được làm con cái Chúa. Từ Giê-ru-sa-lem, Đạo Chúa lan rộng khắp Địa Trung Hải, tới Rô-ma, nhờ có chung một nền văn hóa Hy-lạp. Với sự nhiệt tình và sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã rao giảng sứ điệp Tin Mừng của Đức Kitô đến với mọi người, mọi nơi (người nghèo, người bị bỏ rơi, mọi tầng lớp xã hội trong khắp đế quốc La-mã). Thánh Phê-rô và Phao-lô đã đến rao giảng Tin Mừng và chịu tử đạo tại Rô-ma, nên về sau thủ đô Hội Thánh được đặt ở đó. Tuy nhiên, Đạo Chúa cũng gặp phải những cơn bách hại ghê gớm từ phía các vị hoàng đế bạo chúa ở Rô-ma như: Nêron, Trajan, Dexio-Clexiano. Nhưng trải qua 300 năm bị bách hại, đạo Chúa vẫn tiếp tục lan rộng và ăn sâu vào toàn dân, khắp nơi trong đế quốc La-mã. Tới đầu thế kỷ thứ IV, Tin Mừng Chúa được lan rộng toàn lãnh thổ đế quốc La-mã (Rô-ma) nhờ chiếu chỉ tha đạo (năm 313) của hoàng đế Constantin (kể lý do hoàng đế trở lại đạo). Đạo Chúa từ chỗ bị bách hại đã trở thành quốc giáo. Nhờ ơn Chúa, việc truyền giáo trong thời gian này rất thuận lợi và đã làm cả khối dân trong phần đất của đế quốc La-mã dễ dàng theo đạo Chúa Kitô. Nhưng từ thế kỷ thứ VI trở đi, các bộ tộc Man Di phía Bắc đã tràn xuống xâm lấn các miền đất của đế quốc La-mã. Dần dần, họ đã chia cắt đế quốc ra làm nhiều vương quốc nhỏ, đồng hoá với dân bản địa và trở thành các nước Châu Âu ngày nay. (Thí dụ: bộ tộc Franc chiếm xứ Gaule sau thành dân nước Pháp, bộ tộc Anglo-saxon chiếm Đảo Quốc ngày nay là nước Anh, v.v...). Hội Thánh lại phải vất vả rao giảng Tin Mừng và Kitô hoá các dân tộc mới này. Cụ thể, lịch sử ghi lại vua Clovis và hoàng hậu Clotinda trở lại đạo Chúa Kitô đã làm cho cả nước Pháp theo đạo và trở thành quốc giáo. Cuối cùng, cả khối các dân mới ở Châu Âu đều theo Kitô Giáo. Như vậy trong ngàn năm thứ nhất, Hội Thánh khởi đầu từ Mười Hai vị tông đồ (người Do Thái) đã Kitô hóa trọn vẹn cả lục địa Châu Âu. 2. Ngàn năm thứ hai: (Kitô hóa lục địa Châu Mỹ và Châu Đại Dương) Sang ngàn năm thứ hai, hầu hết cả lục địa Châu Âu đã theo đạo nên việc truyền giáo ngưng lại: bản chất của Hội Thánh bị mai một, từ đó dẫn đến việc chia rẽ Hội Thánh Đông-Tây vào năm 1054. Vào đầu thế kỷ VII tại bán đảo Ả-rập, Hồi Giáo phát sinh và lan rộng. Thế kỷ XII, Hồi Giáo lớn mạnh, đưa quân xâm chiếm các vùng Kitô Giáo và phá tan hết Kitô Giáo ở Bắc Phi, Tiểu Á… rồi tiến quân sang Tây Âu. Trước biến cố đó, Kitô Giáo đã tổ chức Đạo Binh Thánh Giá, để chống lại quân Hồi Giáo nhằm giải phóng Mộ Thánh Chúa ở Giê-ru-sa-lem. Kết quả về quân sự và chính trị của Đạo Binh Thánh Giá không có gì đáng kể. Nhưng chính sự kiện đó đã làm cho Hội Thánh Tây Phương đoàn kết với nhau và lập lại kỷ cương. Thế kỷ XVI, đại quân Hồi Giáo đánh vào nước Ý nhằm phá tan thủ đô Hội Thánh. Hưởng ứng lời Đức Pi-ô V, Kitô Giáo đã tập hợp lực lượng đánh tan quân Hồi Giáo vào năm 1571. Đây là lần cuối cùng, Hồi Giáo bị Kitô Giáo chặn đứng bước bành trướng. Trở lại thời bình, đời sống Hội Thánh lại sa sút, phát sinh nhiều gương mù gương xấu, dẫn đến phong trào cải cách tôn giáo làm phân rẽ Hội Thánh bên Tây Phương. Thế kỷ XVI, xuất hiện Tin Lành và Anh Giáo. Đứng đầu là Luther (Đức), Calvin (Pháp), Henry VIII (Anh). Phong trào tôn giáo cải cách này đã làm cho Hội Thánh bị chia rẽ rất lớn. Khi ấy, các đức giám mục đã họp Công Đồng Tren-tô (1545-1563) để cải tổ lại Hội Thánh. Trước thời đó, năm 1492, Cô-lôm-bô là người đầu tiên đã phát hiện ra Châu Mỹ. Từ đó, Hội Thánh lại bắt đầu tiếp tục xúc tiến việc truyền giáo tại Châu Mỹ và các châu lục xa xôi. Ngành hàng hải phát triển, các nhà buôn đã vượt tới các nước xa xôi ở Châu Úc, Châu Á. Đi theo họ là các nhà truyền giáo đem Tin Mừng Đạo Chúa đến cho các dân tộc tại các nước đó. Tin Mừng chính thức đến Á Châu: năm 1542, Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê đem Tin Mừng đến thành phố Goa (Ấn Độ), Nhật Bản (1549). Đồng thời các nhà truyền giáo khác đã tới hầu hết các nước Viễn Á: Macao (1557), Philipin (1564) và Việt Nam (1533). Vậy ngàn năm thứ hai, Hội Thánh đã Kitô hoá được hoàn toàn Châu Mỹ, Châu Úc và ¼ Châu Phi, và đặt chân tới tất cả các nước Châu Á. 3. Hướng tới ngàn năm thứ ba: (Sẽ đạt được thành quả to lớn tại châu Á) Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã nói tiên tri về hoạt động truyền giáo của Hội Thánh như sau: “Vào ngàn năm thứ ba này, công cuộc truyền giáo của Hội Thánh sẽ gặt hái được kết quả hết sức lớn lao ở Châu Á”. Đường hướng của Hội Thánh nhắm tới hoạt động truyền giáo tại Á Châu trong thiên niên kỷ thứ ba là hội nhập Tin Mừng vào các nền văn hoá. 4. Lịch sử gần 500 năm truyền giáo tại Việt Nam và sự hình thành các Giáo phận Theo lịch sử để lại (Khâm định Việt Sử), năm 1533, lần đầu tiên Tin Mừng đã được đón nhận tại Việt Nam do giáo sĩ I-ni-khu đến giảng đạo tại Ninh Cường - Quần Anh - Trà Lũ (nay thuộc tỉnh Nam Định). - Năm 1550, Dòng Đa Minh vào truyền giáo tại Việt Nam. - Năm 1583, Dòng Phan-xi-cô vào Việt Nam. - Năm 1615, Dòng Tên vào Việt Nam, nhờ đó mà công cuộc truyền giáo mới có qui mô và kết quả cao. Nhờ việc hội nhập văn hóa của Dòng Tên nên đạo Chúa bắt đầu lan rộng và ăn sâu vào lòng dân tộc Việt Nam. Đặc biệt năm 1651, lần đầu tiên cha Đắc Lộ cho xuất bản cuốn Từ điển Việt-Bồ-La và cuốn Phép giảng Tám ngày bằng chữ quốc ngữ ở Rô-ma. Chính ngài đã lập nên Hội Thầy giảng … - Năm 1622, Hội Thánh đã lập Thánh bộ truyền giáo và trực tiếp điều hành các công việc truyền giáo tại Việt Nam. - Năm 1659, Toà Thánh thiết lập 2 Giáo phận đầu tiên tại Việt Nam: Đàng Trong và Đàng Ngoài. - Năm 1668, Đức cha Lam-be-de-la-Mót đã truyền chức cho 4 linh mục đầu tiên của Việt Nam tại Thái Lan (vì khi đó tại Việt Nam đang cấm đạo ngặt). - Năm 1670, Hội Thánh Việt Nam họp Công Đồng đầu tiên tại phố Hiến (thuộc tỉnh Hưng Yên ngày nay). - Năm 1933, Đức Cha Gio-an Bao-ti-xi-ta Nguyễn Bá Tòng được tấn phong giám mục. Ngài là vị giám mục tiên khởi của Việt Nam. - Năm 1960, Toà thánh thành lập Hàng giáo phẩm Việt Nam (24/11/1960). - Năm 1980, thành lập Hội Đồng Giám Mục toàn quốc Việt Nam và họp đại hội đầu tiên sau ngày thống nhất đất nước. Hội Thánh Việt Nam hiện nay có 26 Giáo phận, chia thành ba Giáo tỉnh: Hà Nội, Huế và Thành Phố Hồ Chí Minh. Con số Kitô hữu lên tới khoảng 6 triệu trong cả nước. Tuy nhiên, việc truyền giáo tại Việt Nam, theo qui luật phát triển đạo Chúa, cũng gặp nhiều cơn bách hại đạo dữ dội trong suốt hơn 300 năm. Có những cuộc bách hại không kém phần tàn ác so với thời Nêron đế quốc La-mã xưa. Nhất là những cuộc bách hại thời các vua triều Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Có cả những cuộc thảm sát tập thể dân Kitô hữu thời Văn Thân. Trong tất cả các cuộc bách hại, có tới trên 130 ngàn người bị thảm sát vì đạo. Trong số đó, ngày 19/6/1988 Đức Gio-an Phaolô II đã tôn phong 117 vị Tử đạo Việt Nam lên bậc Hiển thánh và ngày 05/03/2000, ngài đã tôn phong thầy giảng An-rê Phú Yên lên bậc chân phước. Hiện nay, còn hàng nghìn hồ sơ của các chứng nhân anh dũng Việt Nam đang được lưu giữ tại văn phòng của Bộ phong thánh ở Rô-ma. Kết luận Trên đây là lịch sử hơn 2000 năm của Hội Thánh mà Đức Kitô đã lập trên nền tảng các tông đồ, trải qua bao thăng trầm như lời Đức Giêsu đã nói: “Anh là Phê-rô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18). Thật vậy, ngay từ thời sơ khai cho tới nay, Hội Thánh luôn bị bách hại và chống phá khắp nơi mà không bị tiêu diệt; trái lại vẫn phát triển và đi sâu vào lòng người. Điều đó, chứng tỏ Hội Thánh thực là của Chúa. Hội Thánh tuy có cơ cấu trần gian nhưng có linh hồn là Chúa Thánh Thần và có Đầu là Đức Giêsu Kitô. Như thế, khi Hội Thánh đã phát triển tới mức viên mãn, loài người trở nên một đoàn chiên theo một Chúa Chiên thì Hội Thánh sẽ đi về đâu? Chúng ta sẽ tìm hiểu ở bài sau. Gợi ý cầu nguyện: Tuyên xưng niềm tin vào Hội Thánh của Đức Kitô là thực thể thiên linh được chứng minh qua lịch sử thế giới. Xin cho Hội Thánh được ngày càng lớn mạnh. Đọc kinh Sáng danh. Câu hỏi Câu 1: Qua hơn 2000 năm lịch sử, Hội Thánh không ngừng phát triển như được diễn tả trong dụ ngôn Hạt cải. Vậy ngàn năm thứ nhất công cuộc truyền giáo của Hội Thánh thực hiện tới đâu? Câu 2: Trong ngàn năm thứ hai, những châu lục nào của thế giới đã được Kitô hoá toàn bộ, Kitô hoá một phần? Câu 3: Hướng tới ngàn năm thứ ba, Hội Thánh sẽ xúc tiến việc truyền giáo ở châu lục nào? Theo lời tiên tri của đấng nào? Câu 4: Hãy kể lại những mốc lịch sử quan trọng của gần 500 năm truyền giáo ở Việt Nam?

Bài 24 HỘI THÁNH HƯỚNG VỀ TRỜI MỚI-ĐẤT MỚI

Dẫn nhập Hội Thánh đã thi hành lệnh truyền của Chúa Kitô là rao giảng Tin Mừng và thánh hoá muôn dân. Nhờ đó, Tin Mừng đã đến khắp nơi trên hoàn cầu. Tuy nhiên, còn nhiều người chưa được đón nhận Tin Mừng và trong cuộc đời của mỗi người con Chúa cũng vẫn còn những vết đen chưa được thanh tẩy, thánh hoá. Bao lâu còn tình trạng lẫn lộn “Cỏ lùng với lúa”(x.Mt 13,24-30) thì bấy lâu còn lý do để cho Hội Thánh tiếp tục tồn tại. Hội Thánh còn phải vượt qua nhiều thử thách gian nan trong sứ vụ Chúa trao để đưa dẫn mọi người, mọi dân nước, hướng về Trời Mới-Đất Mới trên cả hai bình diện: cộng đoàn và cá nhân. Gợi ý cầu nguyện đầu giờ: Xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, để qua các dấu chỉ thời đại ta nhận ra tương lai vững bền của Hội Thánh xây dựng trên nền đá Phê-rô. Đọc kinh Sáng soi. 1. Bình diện cộng đoàn Nước Chúa phải được mở rộng khắp nơi và ăn rễ sâu vào các nền văn hoá của các dân tộc như men trong bột (x.Mt 13,33). Tuy nhiên, hiện nay trong Hội Thánh cũng như trong thế giới luôn có sự xen lẫn giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự thiện và sự ác, giữa người lành và kẻ dữ … Đó chính là lý do mà Hội Thánh Đức Kitô còn tồn tại cho tới khi hoàn tất sứ vụ là làm Tin Mừng được thấm sâu vào mọi dân, mọi nước. Bao lâu còn có người tội lỗi, còn có người chưa đón nhận Tin Mừng bấy lâu Hội Thánh còn có lý do để tồn tại trên trần gian. Cho nên, không lạ gì ngay trong lòng Hội Thánh vẫn còn tình trạng cỏ lùng lẫn lộn với lúa như dụ ngôn Chúa dạy (x.Mt 13,24-30). Chính Chúa Giêsu đã xác định rõ mục đích của Ngài cũng như của Hội Thánh là để phục vụ cho những người chưa đạt tới sự thánh thiện: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc… Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (x.Mt 9,12-13). Nước Chúa hiện tại đang mở rộng khắp nơi, dù gặp nhiều trở ngại nhưng chắc chắn sẽ tất thắng, vì Chúa Thánh Thần luôn hoạt động trong Hội Thánh của Người. Vì có Đức Kitô là Đầu Hội Thánh lãnh đạo cuộc chiến, như Lời Ngài phán: “Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Khi nào tất cả mọi người trên thế giới này trở về với Chúa Kitô, thì ngày đó chính là ngày cánh chung; ngày mà Đức Kitô toàn thắng trong vinh quang của Thiên Chúa. Đó là ngày Trời Mới-Đất Mới được thực hiện thành toàn như sách Khải Huyền tiên báo. Khi ấy, công lý và hoà bình sẽ ngự trị trên khắp hoàn cầu tức là Đất Mới. Hội Thánh hoàn thành sứ vụ của mình ở trần gian và thành Thánh Giê-ru-sa-lem trên trời sẽ xuất hiện, tức là Trời Mới, nơi Hội Thánh được vinh quang trong Nước Thiên Chúa ngự trị (x.Kh 21). Ngày ấy xảy ra sớm hay muộn là tuỳ thuộc vào công cuộc truyền giáo của Hội Thánh và sự dấn thân cộng tác của mỗi người chúng ta trong tiến trình Phúc Âm hoá xã hội và thánh hoá chính mình. Trong tiến trình phấn đấu cho Nước Chúa mau trị đến, Hội Thánh có một phần tử siêu quần mẫu mực và nêu gương sáng phi thường là Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Chúa Giêsu và cũng là Mẹ các tín hữu chúng ta. Mẹ đã đi tiên phong trên con đường phấn đấu nên thánh, và đã được Thiên Chúa cất nhắc lên trời cả hồn xác. Mẹ nên gương sáng thôi thúc chúng ta noi theo, bắt chước. Mẹ lên nơi vinh hiển như niềm hy vọng tiên báo đoàn con của Mẹ sẽ tới nơi mà Mẹ đã tới đích. Trên Thiên Quốc, Mẹ Maria tiếp tục bầu cử, che chở đoàn con đang khổ công lữ hành về quê trời. Ta hãy tôn kính, mến yêu Mẹ nhân lành và cầu xin, trông cậy ở sự bảo trợ của Mẹ trên trời. Một phương châm hướng dẫn chúng ta trong việc tôn sùng Mẹ Maria đó là nên giống Chúa Giêsu trong cương vị làm con Mẹ. Ta phải coi Chúa Giêsu là người Anh cả, nêu gương cho đoàn em bắt chước Ngài trong mối quan hệ với người Mẹ thiêng liêng của nhân loại. Nếu Chúa Giêsu khi đến với trần gian đã chọn con đường làm con Đức Mẹ Maria, thì cũng theo con đường đó người tín hữu nên thánh bằng cách làm con Đức Mẹ Maria như Ngài. Chúa Giêsu và Đức Mẹ đều đã thưa tiếng “Xin Vâng” với thánh ý Thiên Chúa thì con cái của Mẹ cũng phải nên giống như người Mẹ và người Anh cả của mình cùng chung một dòng máu vâng theo thánh ý Thiên Chúa. “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?… Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (x.Mt12, 46-50). Đó là cách tôn sùng đúng nghĩa nhất đối với Mẹ trên trời. Theo truyền thống của Hội Thánh, ta hãy năng đọc kinh “Kính Mừng” để ngợi khen và cầu xin Mẹ trên trời (giới thiệu kinh Kính Mừng). Hội Thánh cũng còn những phần tử ưu tú là Các Thánh Nam - Nữ trên trời. Các Ngài là những người con của Hội Thánh, đã hoàn thành xuất sắc cuộc lữ hành dương thế, đã đạt tới sự thánh thiện và nay đang được trọng thưởng trên trời. Ta hãy noi gương các Ngài và cầu xin trông cậy ở sự phù trợ ưu ái của các Ngài dành cho đoàn em là chúng ta còn đang phải phấn đấu dưới trần. 2. Bình diện cá nhân Ngay trong cuộc đời của mỗi người con Chúa cũng có những đối kháng giữa ân sủng và tội lỗi, giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối … Vì thế, con người luôn phải đấu tranh với chính mình để Nước Chúa ngự trị nơi tâm hồn, để mỗi ngày mỗi nên thánh theo gương Đức Mẹ Maria, mẫu gương thánh thiện của Hội Thánh. Thánh Phao-lô đã cho thấy kinh nghiệm chiến đấu nội tâm của Ngài như sau: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Khi nào ta chết, cuộc chiến nội tâm đó mới chấm dứt. Đó chính là ngày cánh chung của mỗi người. Chết không phải là hết nhưng là bắt đầu một cuộc sống mới. Vì thế, người ta còn gọi giờ chết là sinh thì (nghĩa là thời sống). Ngày ấy, mỗi người được thưởng phúc Thiên Đàng hay bị phạt Hoả Ngục là do cách sống của mỗi người khi còn ở trần gian (làm lành hay làm dữ, trung thành với Giao Ước hay bất trung). Sau khi chết, mỗi người sẽ đến trước toà Chúa để chịu phán xét riêng về những việc mình đã làm khi còn sống. Ngày tận thế, Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết (phán xét chung) như Ngài tiên báo trong dụ ngôn Ngày Cánh Chung (x.Mt 25, 31-46). Thiên đàng, Luyện ngục và Hoả ngục là những trạng thái tâm linh thiêng liêng, chứ không phải là những nơi chốn trong không gian vũ trụ vật chất, như có người lầm tưởng Hỏa ngục là ở sâu trong lòng đất, còn Thiên đàng ở trên trời cao. + Thiên đàng là tình trạng hoàn toàn hạnh phúc, được bình an trong tâm linh. Ở đó, các thiên thần và những người lành được sống với Thiên Chúa đời đời và yêu mến Ngài hết lòng. + Hoả ngục là tình trạng không được sống với Thiên Chúa, khổ cực nội tâm trong mối hận ngàn đời vì những chọn lựa sai lầm của mình mà đời đời phải bất hạnh, xa lìa Thiên Chúa là Đấng vô cùng thiện hảo. + Luyện ngục là tình trạng thanh luyện những người khi chết còn mắc tội nhẹ. Những người này biết mình sẽ được về với Chúa. Nhưng vì thấy mình còn mắc bợn nhơ chưa xứng đáng đến gần Chúa là Đấng Chí Thánh, họ chờ mong như lửa đốt trong lòng tới ngày được thanh tẩy trọn vẹn để được sống với Chúa là nguồn hạnh phúc. Nhưng sau cái chết, họ không còn có thể lập công đền tội cho mình nữa. Họ chỉ còn nhờ được ơn hiệp thông giúp đỡ của các tín hữu còn sống. Vì thế, những người còn sống cần siêng năng xin lễ, đọc kinh cầu nguyện cho họ, để họ sớm được thanh luyện trọn vẹn mà về với Chúa. Đó là những điều chúng ta tuyên xưng trong phần cuối kinh Tin Kính (giới thiệu học kinh này). Kết luận Chúng ta đã cùng nhau tìm hiều sơ lược lịch sử Kitô Giáo, từ Mạc Khải tự nhiên đến Mạc Khải siêu nhiên trọn vẹn nơi Đức Kitô và được lưu truyền lại trong Hội Thánh cho tới nay. Mục đích của Kitô Giáo nhằm cho con người được hạnh phúc đời này và đời sau qua hai phương thế mà Chúa Kitô đã trao cho Hội Thánh là Lời Chúa và các Bí tích. Hội Thánh đã dùng hai phương thế đó để thi hành sứ mạng là rao giảng Tin Mừng và thánh hóa muôn dân. Tới khi nào muôn dân muôn nước trở thành một đoàn chiên theo một Chúa Chiên, lúc đó Hội Thánh trở thành vương quốc thiên linh như trong sách Khải huyền đã tiên báo là Trời Mới-Đất Mới, có Chúa Kitô ngự trị. Để được hạnh phúc làm con cái Chúa trong Hội Thánh, mỗi người chúng ta hãy thiện chí lắng nghe, thành tâm tìm hiểu và lựa chọn sống theo con đường Chúa Kitô đã mạc khải và lời Hội Thánh dạy mà chúng ta đã học hỏi trong suốt thời gian vừa qua. Gợi ý cầu nguyện: Cám ơn Chúa vì khoá học hiểu đạo Chúa đã xong. Xin Chúa cho ta được niềm tin vững mạnh để sốt sắng chuẩn bị lĩnh Bí tích Khai tâm gia nhập đoàn con cái Chúa. Đọc kinh Tin kính và Sáng danh.

Câu hỏi Câu 1: Chúa Giêsu lập Hội Thánh, giao cho sứ vụ loan báo Tin Mừng và thánh hoá nhân loại. Vậy bao giờ Hội Thánh hoàn thành sứ vụ đó? Tương lai của Hội Thánh sẽ đi về đâu? Bao giờ đến ngày tận thế? Câu 2: Xét về bình diện cộng đoàn, Hội Thánh phải mở rộng Nước Chúa khắp các dân các nước. Hiện nay, Hội Thánh đã thực hiện được đến đâu? Có những khó khăn gì? Và dựa vào đâu mà ta tin chắc chắn Hội Thánh hoàn thành nhiệm vụ đó? Câu 3: Đức Maria ở địa vị nào nơi Hội Thánh trên Thiên quốc? Mẹ đảm nhiệm vai trò gì nơi Hội Thánh lữ hành ở trần gian? Ta phải làm gì để tôn sùng Đức Mẹ cho phù hợp với giáo lý chân chính? Câu 4: Xét về bình diện cá nhân, Ngày tận thế là ngày nào đối với bạn? Bao giờ ngày đó tới? Từ nay đến ngày đó, bạn phải làm gì? Bạn hiểu thế nào về Thiên đàng, Luyện ngục và Hoả ngục?

PHỤ LỤC

  1. MỘT VÀI SỰ KIỆN VỚI NGÀY THÁNG 1. NGUYÊN THUỶ Mặt trời, mặt trăng 4.700.000.000 Trái đất 3.600.000.000 Loài người (Homo habilis) 2.000.000 2. CÁC TỔ PHỤ Tổ phụ Áp-ra-ham đến Ca-na-an 1.850 Các tổ phụ qua Ai-cập 1.700 3. HAI ÔNG MÔ-SÊ GIÔ-SUÊ Ông Mô-sê và cuộc Xuất hành 1.250-1.220 Ông Gio-suê vào xứ Pa-lét-ti-na 1.220-1.200 4. TỪ THỦ LÃNH ĐẾN VUA SA-LÔ-MÔN Các thủ lãnh 1.200-1.025 Ông Sa-mu-en 1.040 Vua Sao-lô 1.030-1.010 Vua Đa-vít 1.010-970 đánh lấy Giê-ru-sa-lem 1.000 Vua Sa-lô-mon 970-931 xây đền thờ 966 Nam Bắc phân tranh 931 5. ÍT-RA-EN Gia-ráp-am I 931-910 Om-ri 885-874 thiết lập thủ đô Sa-ma-ri 880 Sa-ma-ri thất thủ 722-721 Dân Ít-ra-en đi đày Dân ngoại đến ở 6. GIU-ĐA Vua GIO-SI-A 640-609 tìm thấy sách Luật và canh tân tôn giáo 622 Vua GIOI-A-KIM 609-605 chư hầu cho đế quốc Ai-cập 609-605 chư hầu cho đế quốc BA-BI-LON 605-597 Vua GIOI-A-KIN 598-597 Giê-ru-sa-lem đầu hàng 597 dân đi đày (đợt thứ nhất) Vua XÊ-ĐÊ-KI-A 597-587 Giê-ru-sa-lem thất thủ 587 Đền thờ và thành bị phá huỷ 587 Dân thành đi đày (đợt thứ hai) Tổng trấn GIƠ-ĐA-LI-A 587 tổng trấn bị ám sát 587 Dân thành đi đày (lần thứ ba) 582-581 7. THỜI ĐẠI BA-TƯ (538-333) Dân Ít-ra-en hồi hương 538 Xây đền thờ thứ hai 520-515 Lập nước thần quyền gọi là Giu-đê 350 8. THỜI ĐẠI HY-LẠP (333-63) A-LÊ-XAN-ĐÊ Cả chinh phục xứ Pa-lét-ti-na 332 A-LÊ-XAN-ĐÊ Cả băng hà 323 Pa-lét-ti-na thuộc quyền họ Tô-lê-mê 320-200 Thánh Kinh được dịch sang tiếng Hy-lạp Pa-lét-ti-na thuộc quyền họ Xơ-lu-cô 200-142 Đền thờ cung hiến cho thần Zeus Ông Giu-đa Ma-ca-bê khởi nghĩa 166 Thanh tẩy đền thờ 164 Dân Do Thái độc lập (triều đại họ Át-mon) 142-63 9. THỜI ĐẠI RÔ-MA (63 trở đi) Tướng Pom-pê và quân Rô-ma xâm lược Pa-lét-ti-na 63 Ông An-ti-pa-te cai trị xứ Giu-đê Vua Hê-rô-đê, con ông An-ti-pa-te, làm vua 34-4tcn Khởi công xây cất đền thờ thứ ba 20/19tcn Hoàng đế Rô-ma, Au-gút-tô 29tcn-14scn ĐỨC GIÊSU GIÁNG SINH 7/6tcn Vua Hê-rô-đê băng hà 4tcn Tiểu vương Ác-khê-la-ô cai trị Giu-đê-a và Sa-ma-ri 4tcn- 6scn Tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pa cai trị Ga-li-lê và Pê-rê 4tcn- 39scn Tiểu Hê-rô-đê Phi-líp cai trị Gô-lan 4tcn- 34scn Hoàng đế Au-gút-tô truất phế tiểu vương Ác-khê-la-ô 6scn Giu-đê-a biến thành hành tỉnh tổng trấn 6scn- 41 Hoàng đế Ti-bê-ri-ô 14-37 Tổng trấn Phi-la-tô 26-36 Thánh Gio-an Tẩy giả bắt đầu sứ vụ 27 ĐỨC GIÊSU lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ vượt qua (Ga 2,13) 28 ĐỨC GIÊSU CHỊU ĐÓNG ĐINH VÀO THẬP GIÁ VÀ CHỊU CHẾT Năm 30 ngày 7 tháng 4 (hoặc năm 33 ngày 3 tháng 4) ĐỨC GIÊSU SỐNG LẠI 30 hoặc 33 THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG 30 hoặc 33

II. KINH NGUYỆN Dấu Thánh Giá Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần. Amen. Kinh Đức Chúa Thánh Thần Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con, chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống. Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các thánh Tông đồ, thì rầy chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống, an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa Chúng con. Amen Kinh Sáng Danh. Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Thần. Như đã có trước vô cùng, và bây giờ, và hằng có, và đời đời chẳng cùng. Amen. Kinh Tin Lạy Chúa, con tin thật có một Đức Chúa Trời là Đấng thưởng phạt vô cùng. Con lại tin thật Đức Chúa Trời có Ba Ngôi, mà Ngôi thứ Hai đã xuống thế làm người chịu nạn, chịu chết mà chuộc tội cho thiên hạ. Bấy nhiêu điều ấy cùng các điều Hội Thánh dạy, thì con tin vững vàng vì Chúa là Đấng thông minh và chân thật vô cùng đã phán truyền cho Hội Thánh. Amen. Kinh Cậy Lạy Chúa, con trông cậy vững vàng vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu thì Chúa sẽ ban ơn cho con giữ đạo nên ở đời này, cho ngày sau được lên Thiên Đàng xem thấy mặt Đức Chúa Trời hưởng phúc đời đời. Vì Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng đã phán hứa sự ấy chẳng có lẽ nào sai được. Amen. Kinh Kính Mến Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự vì Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng, lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Amen. Kinh Lạy Cha Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con, hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen. Kinh Kính Mừng Kính Mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen. Kinh Tin Kính Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất. Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô, là Con một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà người xuống thai sinh bởi Bà Maria đồng trinh; chịu nạn đời quan Phong-xi-ô-phi-la-tô, chịu đóng đinh trên Cây Thánh Giá, chết và táng xác; xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết. Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các thánh thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen. Kinh Thú Nhận Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Vì vậy, tôi xin Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, các thiên thần, các thánh và anh chị em khẩn cầu cho tôi trước toà Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Amen. Kinh Ăn Năn Tội Lạy Chúa, Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng, Chúa đã dựng nên con và cho Con Chúa ra đời chịu nạn chịu chết vì con, mà con đã cả lòng phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa, thì con lo buồn đau đớn cùng chê ghét mọi tội con trên hết mọi sự; con dốc lòng chừa cải và nhờ ơn Chúa thì con sẽ lánh xa dịp tội cùng làm việc đền tội cho xứng. Amen. Kinh Sáng Soi Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen. Kinh Mười Điều Răn. Đạo Đức Chúa Trời có mười điều răn: Thứ nhất: Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự. Thứ hai: Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ. Thứ ba: Giữ ngày Chủ Nhật Thứ bốn: Thảo kính cha mẹ. Thứ năm: Chớ giết người. Thứ sáu: Chớ làm sự dâm dục. Thứ bảy: Chớ lấy của người. Thứ tám: Chớ làm chứng dối. Thứ chín: Chớ muốn vợ chồng người. Thứ mười: Chớ tham của người. Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen. Kinh Điều Luật Hội Thánh Hội Thánh có năm điều luật: Thứ nhất: Thánh hoá ngày Chủ nhật cùng các ngày lễ buộc bằng việc đi dự Thánh lễ và nghỉ việc làm. Thứ hai: Xưng tội trong một năm ít là một lần. Thứ ba: Lãnh nhận Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong mùa Phục Sinh. Thứ bốn: Giữ chay và kiêng thịt những ngày Hội Thánh buộc. Thứ năm: Góp tiền của cung ứng cho hoạt động tông đồ của Hội Thánh. Kinh Bảy Phép Bí Tích Đạo Đức Chúa Trời có bảy phép Bí Tích: Thứ nhất: là Bí tích Thánh Tẩy. Thứ hai: là Bí tích Thêm Sức. Thứ ba: là Bí tích Thánh Thể. Thứ bốn: là Bí tích Hoà Giải. Thứ năm: là Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân. Thứ sáu: là Bí tích Truyền Chức Thánh. Thứ bảy là Bí tích Hôn Phối. Kinh Mười Bốn Mối Thương người có mười bốn mối. Thương xác bảy mối: Thứ nhất: Cho kẻ đói ăn. Thứ hai: Cho kẻ khát uống. Thứ ba: Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Thứ bốn: Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Thứ năm: Cho khách đỗ nhà. Thứ sáu: Chuộc kẻ làm tôi. Thứ bảy: Chôn xác kẻ chết. Thương linh hồn bảy mối: Thứ nhất: Lấy lời lành mà khuyên người. Thứ hai: Mở dạy kẻ mê muội. Thứ ba: Yên ủi kẻ âu lo. Thứ bốn: Răn bảo kẻ có tội. Thứ năm: Tha kẻ dể ta. Thứ sáu: Nhịn kẻ mất lòng ta. Thứ bảy: Cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Kinh Phúc Thật Tám Mối Phúc thật tám mối: Thứ nhất: Ai có lòng khó khăn ấy là phúc thật, vì chưng Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy. Thứ hai: Ai hiền lành ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được Đất Đức Chúa Trời làm của mình vậy. Thứ ba: Ai khóc lóc ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được yên ủi vậy. Thứ bốn: Ai khao khát nhân đức trọn lành ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được no đủ vậy. Thứ năm: Ai thương xót người ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được thương xót vậy. Thứ sáu: Ai giữ lòng sạch sẽ ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được thấy mặt Đức Chúa Trời vậy. Thứ bảy: Ai làm cho người hoà thuận ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời vậy. Thứ tám: Ai chịu khó vì đạo ấy là phúc thật, vì chưng Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy.

Chúng tôi, các Giám mục chủ toạ khoá hội thảo VII về truyền bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang từ ngày 12-14/11/1974, đồng chấp thuận cho phổ biến và thi hành trong toàn quốc, những quyết định của Ủy ban Giám mục về Truyền bá Phúc Âm ngày 19/04/1972, chiếu theo thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam ngày 14/06/1965, về các nghi lễ tôn kính ông bà tổ tiên như sau: Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin mừng, hội nghị nhận định: “Những cử chỉ, thái độ, lễ nghi có tính cách thế tục, lịch sử xã giao, để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ động” (Thông cáo HĐGMVN 14/06/1965). 1- Bàn thờ gia tiên để kính nhớ ông bà tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như hồn bạch… 2- Việc đốt hương nhang, đèn nến, trên bàn thờ gia tiên và bái lạy trước bàn thờ gia tiên và giường thờ tổ tiên, là những cử chỉ, thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm. 3- Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật” được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương, miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã … và giảm thiểu, canh cải những lễ vật để biểu dương ý nghĩa thành kính biết ơn ông bà, như dâng hoa trái, hương đèn. 4- Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ tổ, lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với ông bà. 5- Trong tang lễ, được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất, cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương, nghiêng mình trước thi hài người quá cố. 6- Được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng, quen gọi là “Phúc thần” tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn nhưng vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc, hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải vì mê tín như đối với các “Yêu thần, tà thần”. Trong trường hợp thi hành các việc trên đây sợ có sự hiểu lầm, nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu, khích lệ, thông cảm… Đối với giáo dân cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính tổ tiên và các vị anh hùng liệt sĩ, theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền “Phải thảo kính cha mẹ”. Đó là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa. Tại Nha Trang, ngày 14/11/1974. Đồng ký tên - Philipphê Nguyễn Kim Điền - TGM. Huế - Giuse Trần Văn Thiện - GM. Mỹ Tho. - Giacôbê Nguyễn Văn Mầu - GM. Vĩnh Long. - Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang - GM. Cần Thơ. - Ph.Xaviê Nguyễn Văn Thuận - GM. Nha Trang. - Phêrô Nguyễn Huy Mai - GM.Ban Mê Thuật. - Phaolô Huỳnh Đông Các - GM.Quy Nhơn.

Tông Hiến Fidei Depositum.

Thông cáo HĐGMVN năm 1974.

Đức Thích Ca Mâu Ni sinh khoảng năm 544 trước công nguyên.

Đức Khổng Tử sinh khoảng năm 561-479 trước công nguyên

Áp-ra-ham sống khoảng năm 1850 trước công nguyên.

Theo nghi thức của người Trung Đông thời cổ, khi giao kết với nhau điều gì quan trọng, thì họ xẻ đôi con vật ra, mỗi bên đi qua giữa hai phần con vật xẻ đôi với lời niệm chú trung thành. Khi đã ký kết rồi mỗi bên phải trung thành với Giao Ước, nếu ai phản bội sẽ bị phanh thây như con vật đó.

Chủ đề