Đánh giá vị thế của kt nb trong cá tbd năm 2024

Căn cứ vào xu hướng phát triển, với kết quả nghiên cứu khoa học, các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh giá Thế kỷ XXI là thế kỷ của châu Á-Thái Bình Dương (CA-TBD). Do vị trí, vai trò ngày càng quan trọng, các nước, nhất là các cường quốc đều có những điều chỉnh chiến lược, nhằm tăng cường ảnh hưởng, bảo vệ lợi ích của mình ở khu vực này.

Hiện CA-TBD chiếm 40% tổng diện tích lãnh thổ, 41% dân số (gần 3,6 tỷ người), 61% GDP, 47% tổng thương mại quốc tế và 48% nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của thế giới. Ở CA-TBD tập trung 65% nguồn nguyên liệu toàn cầu và có nhiều tuyến đường giao thông biển quan trọng bậc nhất thế giới. CA-TBD chịu tác động đồng thời của hai quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá, với các tổ chức như Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và các diễn đàn, như Diễn đàn kinh tế CA-TBD (APEC), Diễn đàn kinh tế Đông Á...; có ba trung tâm sức mạnh là Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc (năm 2010, Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản, vươn lên vị trí nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ) và các nước công nghiệp mới đang phát triển rất thành công, đạt chỉ số cao về tăng trưởng kinh tế. Tại CA-TBD đang diễn ra quá trình cạnh tranh và hợp tác đan xen, trong đó nổi lên là sự tranh giành ảnh hưởng quyết liệt giữa Mỹ và Trung Quốc, trong điều kiện tại đây chưa có một cơ chế đa phương thống nhất về an ninh tập thể; hệ thống an ninh chính trị-quân sự dựa chủ yếu trên các hiệp định và thoả thuận song phương, như: Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ, Hiệp ước về phòng thủ chung giữa Mỹ và Hàn Quốc, Thoả thuận giữa các nước tham gia khối ANZUC (Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Anh, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po). Do đó, các tổ chức khu vực thường có xu hướng kết hợp các mục đích kinh tế với lợi ích an ninh. CA-TBD hiện đang tồn tại các "điểm nóng" ở eo biển Đài Loan, Đông Bắc Á, Biển Đông, eo biển Ma-lắc-ca...; trong đó, tiềm ẩn nguy cơ xung đột do tranh chấp lãnh thổ; mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo; tình hình chính trị nội bộ bất ổn trong từng nước riêng lẻ; nạn khủng bố; cướp biển; buôn lậu vũ khí, ma tuý và di dân bất hợp pháp. Trong bối cảnh còn nhiều phức tạp, các nước CA-TBD đang tập trunghiện đại hoá quân đội và tăng cường sức mạnh quốc phòng. Tổng chi phí quân sự của các nước trong khu vực gần tương đương với chi phí quân sự của tất cả các nước thuộc Liên minh Châu Âu. Ở CA-TBD tập trung 8 quốc gia có lực lượng quân sự với số quân đông nhất thế giới, gồm Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Cộng hoà dân chủ nhân dân (CHDCND) Triều Tiên, Nga, Hàn Quốc, Pa-ki-xtan…, chiếm 23% thị trường vũ khí thế giới.

Do tầm quan trọng của khu vực CA-TBD, một số nước lớn tiến hành những bước điều chỉnh chiến lược đối với khu vực; trước hết phải kể đến Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ.

Điều chỉnh chiến lược của Mỹ. Thời gian gần đây, Mỹ chuyển trọng tâm chiến lược tới khu vực CA-TBD, coi đây là khu vực có ý nghĩa sống còn. Nội dung điều chỉnh chiến lược của Mỹ đối với CA-TBD xoay quanh bốn vấn đề cơ bản. Đó là, củng cố và tăng cường các liên minh truyền thống với các nước trong khu vực; phát triển các quan hệ đối tác chiến lược mới, trước hết là các cường quốc hàng đầu ở CA-TBD; xây dựng các cơ chế bền vững cho sự hợp tác khu vực; xúc tiến và ủng hộ “dân chủ”, “nhân quyền” (theo quan điểm của Mỹ).

Theo đó, Mỹ tăng cường quan hệ liên minh truyền thống với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Phi-lip-pin, Thái Lan... Trong các liên minh này, liên minh Mỹ-Nhật đóng vai trò quan trọng nhất, là hòn đá tảng cho chiến lược an ninh và các mục tiêu chiến lược toàn cầu của Mỹ ở khu vực này. Đồng thời, Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự ở CA-TBD, trước hết là ở Đông Bắc Á, coi lực lượng này là nhân tố chủ yếu đối với an ninh khu vực, trong đó Mỹ giữ vai trò lãnh đạo.

Trong quan hệ với các nước trong khu vực, Mỹ đặc biệt chú trọng quan hệ với Nga và Trung Quốc. Với Nga, Mỹ tăng cường đối thoại và hợp tác quân sự dựa trên những kết quả đã đạt được về cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược theo Hiệp ước START mới; hợp tác trong các lĩnh vực: chống khủng bố, chống phổ biến vũ khí hạt nhân, xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa và chinh phục vũ trụ; hoan nghênh các nỗ lực của Nga trong việc bảo đảm an ninh ở châu Á. Với Trung Quốc, Mỹ xúc tiến hợp tác toàn diện và tích cực; mở rộng các lĩnh vực hợp tác mà hai bên cùng có lợi; tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, ngăn chặn những bất đồng, mâu thuẫn. Mỹ chủ trương hợp tác với Trung Quốc trong chống cướp biển, chống phổ biến vũ khí sát thương hàng loạt; tranh thủ ảnh hưởng của Trung Quốc trong các đối sách với CHDCND Triều Tiên để duy trì sự ổn định trên bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, Mỹ chú ý theo dõi sự phát triển của quân đội Trung Quốc, không để làm mất cân bằng trong cán cân lực lượng giữa Trung Quốc và Đài Loan. Mỹ đặc biệt lo ngại về quy mô và mục tiêu chiến lược của chương trình hiện đại hoá quân đội Trung Quốc, cũng như hành động của Trung Quốc trong vũ trụ, trong không gian ảo, trên Biển Vàng và Biển Đông. Do đó, Mỹ sẽ sẵn sàng thể hiện ý chí và đầu tư nguồn lực để đối phó với hành động của Trung Quốc đe doạ lợi ích của Mỹ cũng như an ninh của các đồng minh của Mỹ ở CA-TBD.

Chiến lược của Trung Quốc. Chiến lược toàn cầu của Trung Quốc là bảo vệ lợi ích kinh tế, ảnh hưởng chính trị và văn hoá ra thế giới, tạo điều kiện thuận lợi để trở thành quốc gia có ảnh hưởng quyết định tới tiến trình phát triển thế giới trong thế kỷ XXI. Theo chiến lược đó, CA-TBD là hướng ưu tiên trong chiến lược của Trung Quốc. Bắc Kinh coi lực lượng vũ trang là một trong những công cụ quan trọng nhất để bảo vệ lợi ích quốc gia và thực hiện chính sách đối ngoại. Quan niệm “quốc phòng” không chỉ là phòng thủ trong nước, mà còn bao hàm cả phạm vi ngoài đất nước, thể hiện rõ trong nội dung “chiến lược phát triển xuống phía Nam”, trong đó có nội dung phát triển ảnh hưởng xuống khu vực Đông Nam Á. Trước mắt, Trung Quốc chủ trương tạo môi trường hoà bình và ổn định trong khu vực CA-TBD, trước hết là Đông Bắc Á và Đông Nam Á để tạo lập “không gian sinh tồn” và phát triển.

Trung Quốc ủng hộ việc thành lập cơ chế an ninh hợp tác khu vực CA-TBD. Trước đây, Trung Quốc chỉ nhấn mạnh đối thoại an ninh song phương vì sợ rằng, diễn đàn an ninh đa phương sẽ là diễn đàn chỉ trích, cô lập Trung Quốc, tại đó Mỹ và Nhật Bản sẽ lợi dụng để gây sức ép với Bắc Kinh về “dân chủ”, “nhân quyền”. Hiện nay, Trung Quốc có sự điều chỉnh trong quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực. Trung Quốc ủng hộ "Diễn đàn khu vực ASEAN” như là khung an ninh đa phương khu vực CA-TBD, qua đó, nhằm gây lòng tin đối với ASEAN.

Chiến lược của Nga. Nga cho rằng tiềm năng hợp tác với các nước trong khu vực CA-TBD là rất lớn, có thể phát huy tác dụng quan trọng cả về phương diện an ninh và phát triển kinh tế. Những nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại của Nga nhằm tăng cường hợp tác với các nước ở CA-TBD để cân bằng lực lượng với phương Tây. Về kinh tế, Nga tích cực tham gia hợp tác và hội nhập với các nền kinh tế ở CA-TBD, nâng cao tính ảnh hưởng của họ đối với khu vực này. Nga chủ trương mở cửa miền Viễn Đông để thu hút đầu tư nước ngoài; áp dụng nhiều chính sách ưu đãi, đưa ra các hạng mục hợp tác, thành lập các khu vực kinh tế tự do ở các miền ven biển Viễn Đông. Nhiều nước, trong đó quan trọng là Nhật Bản, Hàn Quốc đang tích cực hợp tác với Nga phát triển kinh tế ở vùng này. Nga cũng tăng cường mở rộng thị trường vũ khí ở khu vực, coi đây là nguồn cung cấp ngoại hối quan trọng và để cải thiện quan hệ với các nước trong khu vực.

Nga chú trọng cải thiện và phát triển quan hệ song phương và đa phương với các nước CA-TBD, coi trọng xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc, Việt Nam và Ấn Độ, tập trung vào các lĩnh vực kinh tế, thương mại, kỹ thuật quân sự, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi. Nga chủ trương thúc đẩy thành lập cơ chế hiệp thương an ninh Đông Bắc Á, gồm CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga, lấy cơ chế này thiết lập không gian an ninh tập thể cho khu vực CA-TBD. Mặt khác, Nga tiếp tục duy trì và đề cao vai trò lực lượng quân sự của họ ở khu vực, tập trung hiện đại hoá quân đội; trong đó, ưu tiên lực lượng quân sự đóng ở vùng Viễn Đông, trước hết là trên quần đảo Cu-rin, nơi đang diễn ra tranh chấp với Nhật Bản.

Chiến lược của Ấn Độ. Tuy không phải là quốc gia thuộc khu vực CA-TBD, nhưng Ấn Độ từ lâu đã có chiến lược đối với khu vực này và gần đây đang có những chuyển biến đáng kể dưới tác động từ sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ, Nga và Trung Quốc. Ấn Độ ủng hộ chương trình phòng thủ tên lửa quốc gia và “cuộc chiến chống khủng bố” của Mỹ, đồng thời thông qua quan hệ với Mỹ, Ấn Độ có thể tạo ra thế đối trọng đối với Trung Quốc trong khi vẫn coi trọng quan hệ với Trung Quốc và Nga. Đối với khu vực Đông Nam Á, Ấn Độ chủ trương quan hệ với tất cả các nước trong khu vực, nhằm thực hiện chính sách “hướng đông”, vươn sang Thái Bình Dương. Gần đây, Ấn Độ điều chỉnh chiến lược quân sự không chỉ nhằm đối phó với sự lớn mạnh về quân sự của Trung Quốc và Pa-ki-xtan mà còn nhằm đảm bảo vai trò là cường quốc số 1 ở khu vực Nam Á, tạo điều kiện để Ấn Độ vươn lên trở thành một trong những cường quốc có ảnh hưởng toàn diện ở CA -TBD.

Chiến lược của Nhật Bản. Ngay từ năm 1993, Nhật Bản đề ra chính sách CA-TBD trong thời đại mới, gọi là “Học thuyết Mi-a-da-oa”. Từ đó đến nay, các chính quyền tiếp theo ở Nhật Bản cơ bản vẫn theo đuổi học thuyết này đối với khu vực CA-TBD; tuy nhiên, cũng có một số điều chỉnh để thích ứng với tình hình mới. Quan điểm cơ bản của Nhật Bản là để duy trì nền an ninh của họ, cần phải duy trì các nỗ lực ngoại giao nhằm bảo đảm sự ổn định về chính trị trên thế giới, tăng cường nỗ lực phòng thủ dựa trên cơ sở hệ thống an ninh Nhật-Mỹ, coi đó là nền tảng, là xương sống trong chính sách của họ. Tuy nhiên, hiện nay Nhật Bản chú trọng tăng cường tính độc lập, tự chủ, từng bước nâng cao vị thế trong mối quan hệ với Mỹ.

Nhật Bản coi khủng hoảng hai miền Nam và Bắc Triều Tiên là yếu tố gây bất ổn định hàng đầu đối với khu vực Đông Bắc Á. Do đó, Nhật Bản tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với Hàn Quốc, bình thường hoá quan hệ với CHDCND Triều Tiên, phối hợp với Mỹ và Hàn Quốc giải quyết cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Nhật Bản chủ trương phát triển cân bằng quan hệ với Nga cả về chính trị và kinh tế, khắc phục di sản nặng nề do quá khứ để lại, như vấn đề lãnh thổ ở phương Bắc và bình thường hoá quan hệ Nhật-Nga.

Nhật Bản quan tâm đặc biệt nhân tố Trung Quốc trong nền an ninh của họ ở khu vực CA-TBD. Tô-ki-ô lo ngại chính sách và các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Nếu Trung Quốc sử dụng vũ lực trong cuộc tranh chấp ở vùng này sẽ đe doạ nghiêm trọng tự do thông thương và an ninh năng lượng, an ninh lương thực của Nhật Bản, vì phần lớn dầu mỏ, lương thực của Nhật Bản nhập khẩu phải đi qua vùng này. Do đó, Nhật Bản chủ trương xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc, tiếp tục ủng hộ chính sách mở cửa của Trung Quốc, đồng thời tiến hành đối thoại thẳng thắn với Trung Quốc trên mọi vấn đề quốc tế cũng như khu vực.

Là cường quốc kinh tế, Nhật Bản đang tìm cách vươn lên thành cường quốc chính trị, giữ vai trò thích đáng trong khu vực và trên thế giới. Do đó, Nhật Bản nhấn mạnh vai trò và tăng cường sức mạnh quân sự, mở rộng quy mô hoạt động của lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Đây là một sự điều chỉnh đáng chú ý của Nhật Bản trong chiến lược đối với khu vực CA-TBD.