Sau đây cùng Mindovermetal đi tìm hiểu về Vai trò, ứng dụng của các quy luật của cảm giác và tri giác trong cuộc sống, thông qua 2 câu hỏi dưới đây: Show Nội dung chính
Câu 1:Vai trò và ứng dụng của các quy luật của cảm giác và tri giác trong cuộc sốngI. Cảm giác1. Khái niệm về cảm giácCảm giác là quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, bề ngoài của sự vật hiện tượng cụ thể đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta. 2. Các quy luật cơ bản của cảm giáca. Quy luật ngưỡng cảm giác
Ngưỡng cảm giác có 2 loại:
Phạm vi giữa ngưỡng cảm giác phía trên và ngưỡng cảm giác phía dưới: là vùng cảm giác được trong đó có một vùng phản ánh tốt nhất. Ngưỡng sai biệt: là mức độ chênh lệch là mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc tính chất giữa hai kích thích đủ để phân biệt sự khác nhau giữa cá kích thích. Ngưỡng sai biệt của cảm giác là một hằng số. Ví dụ:
Độ nhạy cảm của cảm giác: là khả năng cảm nhận được cường độ kích thích tối thiểu, tức là nhận ra được ngưỡng cảm giác, ngưỡng cảm giác phía dưới càng nhỏ thì độ nhạy cảm của cảm giác càng cao. Độ nhạy cảm của cảm giác tỉ lệ nghịch với ngưỡng cảm giác phía dưới. Độ nhạy cảm sai biệt của cảm giác: là khả năng cảm nhận được sự khác biệt về cường độ, tính chất của hai kích thích, tức là nhận ra được ngưỡng sai biệt của cảm giác, ngưỡng sai biệt càng nhỏ thì độ nhạy cảm sai biệt của cảm giác càng cao. Độ nhạy cảm sai biệt của cảm giác tỉ lệ nghịch với ngưỡng sai biệt. Vai trò của cảm giác Nhờ có ngưỡng cảm giác mà ta có thể lằng nghe thấy tiếng xe cộ chạy ồn ào, có thể nhìn thấy mọi vật đang chuyển động và cũng có thể cảm nhận được thế giới xung quanh luôn thay đổi. Ví dụ: Tai ta có thể nghe thấy được âm thanh trong khoảng từ 16Hz đến 20000Hz, âm thanh ta nghe được tốt nhất là ở 100Hz, dưới 16Hz âm thanh nhỏ quá ngưỡng cảm giác nghe nên ta không thể cảm nhận được, trên 20000Hz âm thanh lúc này quá lớn ta cũng không thể nghe thấy được. b. Quy luật về sự thích ứng của cảm giác
Ví dụ cụ thể: Khi ta đeo vòng tay thì lâu ngày ta không còn cảm nhận được sức nặng của
Ví dụ cụ thể: Từ chỗ tối bước qua chỗ sáng, phải qua một thời gian đợi cho tính nhạy cảm
Ví dụ cụ thể: Hai bàn tay, một ngâm vào nước nóng, một ngâm vào nước lạnh sau đó nhúng cả hai vào chậu nước bình thường thì bàn tay ngâm ở châu nước nóng cảm thấy nước ở chậu lạnh hơn so với bàn tay kia. Quy luật thích ứng có ở tất cả các loại cảm giác, nhưng mức độ thích ứng không giống nhau:
Khả năng thích ứng của cảm giác có thể được phát triển do hoạt động và rèn luyện. c. Quy luật về sự tác động qua lại giữa các cảm giác
Cụ thể:
Ví dụ: Những âm thanh nhẹ làm tăng thêm tính nhạy cảm nhìn.
Ví dụ: Khi ta bị bệnh thì lúc ăn sẽ không có cảm giác ngon miệng.
Do đó, có hai loại tương phản: tương phản đồng thời và tương phản nối tiếp.
Ví dụ: Khi ta đặt hai tờ giấy trắng cùng loại, một trên nền giấy đen, một trên nền giấy xám thì tờ giấy trắng trên nền giấy đen ta sẽ có cảm giác như nó trắng hơn so với tờ giấy trên nền xám kia.
Ví dụ: Khi ta ngâm tay trong một chậu nước đá thì khi ta bỏ tay ra và ngay sau đó ngâm vào một chậu nước ấm ta sẽ cảm giác chậu nước ấm rất nóng. Hay khi ta ăn một cái kẹo ngọt sau đó ăn một quả chuối thì ta sẽ thấy quả chuối đó không ngọt như trước nữa. II. Tri giác1. Khái niệmTri giác là quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật và hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta. 2. Các quy luật cơ bản của tri giáca. Quy luật về tính đối tượng của tri giác
Ví dụ: Các chú bộ đội có thể tri giác được chiếc xe tăng dựa vào tiếng xích xe,
Ví dụ: Người họa sĩ có thể tri giác bức tranh tốt hơn so với chúng ta ( họ có thể dễ dàng nhận biết thể loại tranh cũng như ý nghĩa của bức tranh đó). Tính đối tượng của tri giác có vai trò quan trọng nó là cơ sở của chức năng định hướng hành vi và hoạt động của con người. Ứng dụng:
b. Quy luật về tính lựa chọn của tri giácTính lựa chọn của tri giác là quá trình tách đối tượng ra khỏi bối cảnh xung quanh để phản ánh đối tượng tốt hơn. Bối cảnh là các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan bên ngoài đối tượng tri giác. Đối tượng tri giác là hình, bối cảnh tri giác là nền, giữa đối tượng và bối cảnh không cố định. Bối cảnh và đối tượng rõ ràng thì tri giác thuận lợi và ngược lại (ngụy trang). Đối tượng của tri giác càng nổi rõ trong bối cảnh thì sự lựa chọn sẽ diểm ra nhanh hơn và ngược lại. Kinh nghiệm của chủ thể về loại đối tượng nào càng phong phú thì chủ thể dễ chọn đối tượng đó làm tri giác. Ví dụ: Trong sách để giúp học sinh ghi nhớ những kiến thức quan trọng, người ta thường in nghiêng để nhấn mạnh. Hay giáo viên thường dùng bút đỏ để chấm bài giúp học sinh có thể nhận ra chỗ sai của mình dễ dàng. Ứng dụng:
c. Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giácKhi tri giác một sự vật, hiện tượng con người có khả năng gọi tên, phân loại, chỉ ra được công dụng, ý nghĩa của nố đối với hoạt động của bản thân. Ví dụ: Khi đi mua hoa quả, ta có thể tri giác được đó là loại quả gì và có thể gọi tên cũng như nói được những đặc điểm riêng biệt của quả đó. Chẳng hạn như ta có thể phân biệt quả cam với quả bưởi, quả bưởi to hơn quả cam, mùi vị cũng khác nhau. Vai trò: giúp ta gọi tên ( con gì?, cái gì? ); biết công dụng, tính chất của sự vật, hiện tượng; xếp loại và phân nhóm chúng. Tính có ý nghĩa của tri giác phụ thuộc vào khả năng tri giác trọn vẹn sự vật, hiện tượng, vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, khả năng ngôn ngữ, khả năng tư duy của chủ thể. Ứng dụng: Người ta dùng khả năng tri giác sự vật, hiện tượng của con người để họ nhận biết được sảm phẩm, tính chất sự việc thống qua quảng cáo, nghệ thuật Tùy thuộc vào đặc điểm của nhóm khách hàng mà đưa ra những sản phẩm phù hợp. d. Quy luật về tính ổn định của tri giácTính ổn định cảu tri giác là khả năng phản ánh tương đối ổn định về sự vật, hiện tượng khi điều kiện tri giác đã thay đổi. Ví dụ: Khi viết lên trang giấy ta luôn thấy trang giấy có màu trắng mặc dù ta viết dưới ánh đèn dầu, lúc trời tối. Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào:
Ví dụ: một đứa trẻ đứng gần ta và một người lớn đứng xa ta hàng chục mét. Trên võng mạc ta hình ảnh của đứa trẻ lớn hơn ảnh của người lớn, nhưng ta vẫn biết đâu là đứa trẻ đâu là người lớn nhờ tri giác. Ứng dụng:
e. Quy luật tổng giácTrong khi tri giác thế giới, con người không chỉ phản ánh thế giới bằng những giác quan cụ thể mà toàn bộ những đặc điểm nhân cách, đặc điểm tâm lý của con người cũng tham gia tích cực vào quá trình tri giác, làm cho khả năng tri giác của con người sâu sắc, tinh vi và chính xác hơn. Những đặc điểm nhân cách hình thành ở cá nhân:
Những đặc điểm tâm lý đã hình thành ở cá nhân đã chi phối đến đối tượng tri giác, tốc độ tri giác và độ chính xác của tri giác. Ví dụ: Khi tâm trạng ta không vui thì nhìn vào một khung cảnh nào đó, dù nó có đẹp đến đâu thì ta cũng thấy nó rất nhàm chán. Ứng dụng:
Ví dụ: Trong các trường mấu giáo, các cô giáo thường sử dụng hình ảnh, tranh vẽ để giúp các em nhận biết dễ hơn đồng thời tạo cảm giác thích thú, hấp dẫn các em tập trung, ghi nhớ bài. f. Ảo giácẢo giác là sự phản ánh sai lầm về sự vật, hiện tượng có thật đang tác động vào các giác quan của cá nhân mà sự sai lầm này mang tính khách quan. Ví dụ: Khi ta đi ngoài trời nắng lâu thì ta cảm giác như phía trước xa xa có một vũng nước. Đó là do đi nắng lâu sẽ khiên ta cảm thấy nóng và khát nước dẫn đến áo giác phía trước có một vũng nước. Hay như trong hình vẽ thì ta cảm giác đoạn thẳng ab > cd nhưng thực tế hai đoạn này bằng nhau. Có 2 nguyên nhân sinh ra ảo giác: Nguyên nhân khách quan: Do thiếu sự tương phản giữa vật và nền, do sự xóa nhòa giữa vật và nền. Ví dụ: trong chiến tranh, để ngụy trang tránh máy bay trinh sát của địch, ông cha ta đã dùng những cành lá buộc vào ba lô vác trên vai khiến quân địch khó phân biệt được khi ta đang hành quân trong rừng. Do hiệu ứng khuếch tán, nghĩa là vật sáng hơn vật tối mặc dù chúng bằng nhau. Nguyên nhân chủ quan: không hiểu được ý nghĩa về hình ảnh mà mình tri giác. Ứng dụng: Người ta lợi dụng ảo giác vào kiến trúc, hội họa,
trang trí, trang phụcđể phục vụ Ví dụ: Nếu bạn nữ có da trắng hồng thì nên chọn những trang phục có màu thẫm hoặc tối để làm tôn lên làn da đó. Ngược lại, những bạn có da tối thì nên mặc những trang phục có màu sáng, Hay nếu bạn thấp thì nên mặc áo kẻ dọc sẽ tạo cảm giác cao hơn, nếu bạn cao, gầy thì nên mặc áo kẻ ngang. Bên cạnh đó, ảo giác còn gây ra hoang tưởng, mơ mộng về một việc mà biết chắc không có thật, phản ánh không đúng, sai lệch về bản chất bên trong của sự vật, hiện tượng. Câu 2: Tư duy xuất phát từ hoàn cảnh có vấn đề
Nói đến tư duy là ta nhắc đến một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của các sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết. Xét về nguồn gốc hình thành tư duy có ý kiến cho rằng: Tư duy xuất phát từ hoàn cảnh có vấn đề. Như vậy, trước hết phải gặp hoàn cảnh (tình huống ) có vấn đề, tức hoàn cảnh ( tình huống) có chứa đựng một mục đích mới, một vấn đề mới, một cách thức giải quyết mới mà những phương tiện, phương pháp hoạt động cũ, mặc dù vẫn còn cần thiết nhưng không đủ sức giải quyết vấn đề mới đó, để đạt được mục đích mới đó. Muốn giải quyết vấn đề này phải tìm ra cách thức giải quyết mới, tức là phải tư duy. Mặt khác, hoàn cảnh có vấn đề phải được cá nhân nhận thức đầy đủ, được chuyển thành nhiệm vụ của cá nhân. Tức là cá nhân phải xác định được cái gì (dữ kiện) đã biết, đã cho và cái gì còn chưa biết, phải tìm, đồng thời phải có nhu cầu (động cơ) tìm kiếm nó. Những dự kiến quen thuộc hay nằm ngoài tầm hiểu biết của cá nhân thì tư duy cũng không xuất hiện. Để chứng minh về nguồn gốc nói trên của tư duy, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về một số ví dụ sau: Ví dụ 1: Bài toán MUA KẸOCho bạn 2000 đồng đi mua kẹo. Được biết:
Hỏi: với 2000 đồng, bạn sẽ mua được bao nhiêu viên kẹo? Khi đọc bài toán này lên đầu tiên trong đầu chúng ta sẽ nghĩ rằng: đây là bài toán chắc học sinh lớp 3 cũng sẽ giải được! Chỉ cần một phép tính 2000 : 200 =10 là sẽ ra số viên kẹo mà chúng ta mua được với số tiền đã cho. Nhưng kết quả như vậy có phải là đáp án đúng? Mặt khác, bài ra còn cho thêm dữ liệu cứ 2 vỏ kẹo đổi được 1 viên lẽ nào lại không dùng đến? Mà theo logic toán học thì tất cả những dữ liệu mà bài toán cho đều sẽ dùng đến mà không phải là thừa! Như vậy hoàn cảnh có vấn đề đã xuất hiện và sẽ làm cho chúng ta phải suy nghĩ rằng như thế nào mới là đúng đây? Do đó chính hoàn cảnh có vấn đề này đã làm xuất hiện tư duy. Sau đây là một số cách giải theo cách tư duy của từng người: Người thứ nhất giải như sau: 2000 đồng > 10 viên (1) Tổng số viên mua được : (1) + (2) + (3) + (4) + (5) + (6) = 10 + 5 +2 +1 +1 +1 = 20 Nên với 2000 đồng bạn có thể mua được tổng cộng 20 viên kẹo. Người thứ 2 giải như sau: Tôi dùng 2000 đồng mua được 10 viên kẹo. Tôi tiến hành ăn hết 10 viên kẹo vùa mua được lúc này sẽ xuất hiện 10 vỏ kẹo tôi lại mang đi đổi được 5 viên kẹo. Tôi tiến hành ăn hết 5 viên kẹo vừa đổi được lúc này sẽ xuất hiện 5 vỏ kẹo tôi lại mang đi đổi được 2 viên kẹo và dư 1 vỏ kẹo. Tôi tiến hành ăn hết 2 viên kẹo vừa đổi được lúc này sẽ xuất hiện 2 vỏ kẹo+với 1 vỏ kẹo lúc nãy = 3 vỏ kẹo tôi lại mang đi đổi được 1 viên kẹo và dư 1 vỏ kẹo. Tôi tiến hành ăn hết 1 viên kẹo vừa đổi được lúc này sẽ xuất hiện 1 vỏ kẹo+với 1 vỏ kẹo lúc nãy = 2 vỏ kẹo tôi lại mang đi đổi được 1 viên kẹo. Vậy tổng cộng số kẹo mà ta có được là: 19 viên. Ví dụ 2Trong giờ kiểm tra toán, cô giáo cho một bài toán mới mà từ trước đến nay chưa bao giờ cô cho lớp làm thử. Bài tập này dành cho những học sinh khá giỏi của lớp. Để giải được nó, ta cần tổng hợp tất cả các cách giải đã học trước đó lại để phân tích bài toán. Trong hoàn cảnh này, những học sinh nhận ra được vấn đề rằng bài toán này không thẻ giải bằng phương pháp bình thường sẽ xuất hiện tư duy về bài toán (do trong giờ kiểm tra nên cần thiết phải làm được bài đẻ đạt điểm cao và có nhu cầu giải quyết vấn đề ). Như vậy tình huống mới này đã thôi thúc học sinh cần phải tư duy đầu óc để làm bài toán đó. Nhưng cũng bài toán đó nhưng trong trường hợp thi học sinh giỏi thì các thí sinh khi tiếp xúc với bài này. Thí sinh chuyên toán sẽ có nhu cầu cao với dạng bài tập mới. Từ đó dẫn đến việc tư duy cho bài toán. Còn thí sinh chuyên hóa sẽ không có nhu cầu với bài toán trên. Lúc này tư duy để giải bài toán sẽ không xuất hiện đối với thí sinh chuyên hóa. Như vậy, qua việc phân tích các ví dụ trên ta có thể chứng minh rằng : Tư duy xuất phát từ hoàn cảnh có vấn đề. Vấn đề là tiền đề để xuất hiện tư duy, vấn đề thúc đẩy và là động lực cho tư duy. Nhận xétTư duy không thể nảy sinh nếu thiếu vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Mức độ của vấn đề có tác động quyết định đến khả năng hình thành tư duy. Nhưng việc tư duy và tìm ra được phương pháp giải quyết vấn đề lại còn tùy thuộc vào năng lực và điều kiện thực tế của mỗi cá nhân trong quá trình nhận thức và tư duy. Ý nghĩaViệc nhận ra được bản chất tính có vấn đề của tư duy giúp ta có cái nhìn khoa học và chính xác về khả năng hình thành tư duy, giải quyết vấn đề của chúng ta. Là yếu tố quan trọng để chỉ ra rằng việc nâng cao khả năng tư duy của con người là hoàn toàn có thể và chủ động, giúp con người ta có động lực để học tập, tích lũy và hoàn thiện bản thân, hoạt động của chính mình. Đối với sinh viên, việc học tập và rèn luyện đôi khi gây ra nhiều khó khăn nhưng đó cũng là động lực giúp chúng ta có thể trưởng thành hơn. Qua đó nêu ra nhiệm vụ đối với mỗi sinh viên là phải không ngừng học tập, trau dồi bản thân để có thể giải quyết được nhiều vấn dề phức tạp do cuộc sống đem lại. Như vậy với những kiến thức ở trên đã giúp cho các bạn đọc hiểu rõ hơn về vai trò, ứng dụng của các quy luật của cảm giác và tri giác trong cuộc sống. Đồng thời đưa ra các ví dụ về ứng dụng của các quy luật của cảm giác và tri giác để bạn dễ dàng hình dung hơn. Đừng quên theo dõi Mindovermetal thường xuyên để biết thêm nhiều ứng dụng hay mỗi ngày. |