Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại điều 248 và điều 249 của bộ luật hình sự. Show Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình; NỘI DUNG TƯ VẤN Có hai nội dung cơ bản sau. Thứ nhất, hình thức đánh bạc online có cấu thành tội đánh bạc không? Thứ hai, hình thức xử phạt đối với hành vi này như thế nào? Vấn đề 1. Có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc không? Đối với tội đánh bạc được quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi năm 2017 (sau đây gọi là bộ luật hình sự) quy định như sau: Điều 321. Tội đánh bạc “1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.” Theo quy định này có thể thấy: Theo quy định này, có thể hiểu một cách khái quát rằng nếu có hành vi đánh có giá trị từ 5.000.000 đồng trở lên thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hoặc nếu dưới 5.000.000 nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự: – Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc; – Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc; – Đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Về tiền và hiện vật đánh bạc được xác định chính là tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ ở chiếu bạc, thu được trong người đánh bạc hay ở những nơi khác mà đủ cơ sở để xác định đã được hay sẽ được dùng để đánh bạc. Hành vi đánh bạc cấu thành tội phạm khi giá trị tiền đánh bạc từng lần có trị giá từ 5.000.000 đồng trở lên. Hiện nay, chưa có một văn bản mới nào hướng dẫn việc áp dụng cho thống nhất, thực tiễn vẫn áp dụng những hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn xử lý đối với các hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc. Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP quy định: “2. Khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người đánh bạc không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét; cụ thể như sau:
3. “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm:
4. Khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc cần phân biệt:
Ví dụ 1: Tại kỳ đua ngựa thứ 39, tổ chức vào ngày 15-7-2010, trong khoảng thời gian từ 9 giờ đến 11 giờ A đã cá độ ba đợt cụ thể là đợt một 500.000 đồng, đợt hai 1.000.000 đồng, đợt ba 2.000.000 đồng, trong trường hợp nàychỉ coi A đã đánh bạc một lần trong kỳ đua ngựa đóvới tổng số tiền là 3.500.000 đồng. Ví dụ 2: Ngày 20-7-2010, trong khoảng thời gian từ 10 giờ đến 16 giờ, B mua ba số đề trong một lô đềcụ thể là: mua số 17 với số tiền là 500.000 đồng, mua số 20 với số tiền là 2.100.000 đồng, mua số 25 với số tiền 3.000.000 đồng; trong trường hợp này, chỉ coi B đánh bạc một lần. Trong các trường hợp nêu tại ví dụ 1 và ví dụ 2 trên đây, nếu số tiền cá độ đua ngựa, số tiền mua số đề của mỗi đợt từ 2.000.000 đồng trở lên thì cũng không được áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự.” Như vậy, theo quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự nếu từng lần đánh bạc của quý khách có giá trị dưới 5.000.000 đồng và đồng thời chưa từng có tiền án, tiền sự theo quy định trên thì quý khách không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vấn đề 2. Hình thức xử phạt Như phân tích ở trên, nếu không đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc thì hành vi đánh bạc trái phép bị xử phạt theo quy định sau: “Điều 26. Hành vi đánh bạc trái phép 1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi mua các số lô, số đề. 2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi đánh bạc sau đây:
3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh bạc sau đây:
5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh đề sau đây:
6. Hình thức xử phạt bổ sung: Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và tịch thu tiền do vi phạm hành chính mà có đối với hành vi quy định tại Khoản 1; Khoản 2; Điểm a Khoản 3; Điểm b, c, d Khoản 4 và Khoản 5 Điều này. 7. Người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại Khoản 1, 2, 3, 4 và Khoản 5 Điều này, thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” Người chơi lô đề bị phạt như thế nào?Căn cứ khoản 5 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, người ghi lô đề bị xử phạt như sau: Mua số lô, số đề: Phạt tiền từ 200.000 - 500.000 đồng. Đánh đề bao nhiêu thì bị truy tố?Như vậy, người có hành vi chơi lô đề thì được xem là hành vi đánh bạc trái phép. Nếu chơi lô đề có giá trị từ 5.000.000 hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc này hoặc hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc này hoặc tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Lô đề chơi như thế nào?Chơi lô đề là hình thức đặt cược dựa trên việc dự đoán kết quả xổ số kiến thiết hàng ngày, nên có thể hiểu nôm na rằng việc “đánh lô”, “đánh đề” là một dạng cờ bạc ăn tiền trái pháp luật. Ghi đè là gì?Giấy ghi đề hay còn gọi là giấy ghi lô đề, giấy ghi số đề dùng để ghi lại việc mua số, trục lợi, ăn thua bằng tiền. Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể về khái niệm của hành vi ghi lô số đề. |