Cách tính bồi thường bảo hiểm tài sản

Bảo hiểm được chia thành nhiều loại hình khác nhau như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tính mạng, sức khỏe, bảo hiểm tài sản,…. Mỗi loại bảo hiểm đều có những đặc trưng riêng biệt. Trong bảo hiểm thì mỗi hợp đồng bảo hiểm đều xác định một giá trị bảo hiểm khác nhau. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ cung cấp thông tin chi tiết về giá trị bảo hiểm cũng như việc xác định số tiền bồi thường của bảo hiểm tài sản.

Cách tính bồi thường bảo hiểm tài sản

Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Giá trị bảo hiểm là gì?

Hợp đồng bảo hiểm luôn hướng tới đối tượng bảo hiểm nhất định. Ví dụ như bảo hiểm tính mạng, sức khỏe sẽ có đối tượng đó chính là tính mạng, sức khỏe; và hợp đồng bảo hiểm tài sản thì có đối tượng là tài sản được bảo hiểm. Và giá trị bảo hiểm sẽ xác định trong loại hình bảo hiểm này. Trong hợp đồng bảo hiểm tài sản, các tài sản là đối tượng được bảo hiểm sẽ được xác định với một mức giá trị nhất định, và giá trị đó chính là giá trị bảo hiểm.

Giá trị của đối tượng được bảo hiểm sẽ được xác định do bên mua bảo hiểm và công ty bảo hiểm xác định, giá trị này sẽ được ghi trong hợp đồng bảo hiểm, thông thường, giá trị được xác định chính là giá trị thực tế của tài sản.

Nhiều yếu tố góp phần việc xác định giá trị bảo hiểm và công ty bảo hiểm sẽ đánh giá chúng trong quá trình bảo lãnh phát hành để quyết định mức phí. Một số yếu tố sẽ ảnh hưởng đến việc xác định giá trị bảo hiểm bao gồm:

– Tuổi và tình trạng tài sản

– Nơi có tài sản, hay nơi sinh sống

– Chi phí thay thế

– Thương hiệu, đời, cấu trúc của tài sản
…..

Xem thêm: Nguyên tắc trung thực tuyệt đối trong bảo hiểm là gì? Bản chất và đặc trưng?

2. Xác định số tiền bồi thường của bảo hiểm tài sản: 

Bảo hiểm tài sản cung cấp các hình thức bảo vệ khác nhau chống lại mất mát hoặc thiệt hại. Ví dụ như tài sản là nhà ở thì đầu tiên, nó bảo vệ ngôi nhà và bất kỳ công trình kiến trúc nào được bảo vệ khỏi những nguy cơ được bảo vệ. Nó cũng có thể bao gồm các cấu trúc khác trong khuôn viên nhưng không gắn liền với ngôi nhà của bạn. Nội dung bên trong ngôi nhà và các đồ dùng cá nhân khác hoặc những người khác mà người mua bảo hiểm sống cùng cũng được bảo hiểm.

Bảo hiểm tài sản bao gồm những tổn thất hoặc thiệt hại do các nguy cơ gây ra như lửa, khói, mưa đá, gió, sét, tuyết và các sự cố liên quan đến thời tiết khác. Phạm vi bảo hiểm cũng mở rộng đến bạo loạn hoặc bất ổn dân sự, hành vi trộm cắp và phá hoại cấu trúc và nội dung bên trong đối với tài sản kinh doanh. Công ty bảo hiểm cũng có thể cung cấp bảo hiểm trách nhiệm để bảo vệ bên thứ ba bị thương khi ở trên tài sản. Ngược lại, bảo hiểm tài sản điển hình không chi trả cho những tổn thất do động đất, lũ lụt hoặc chiến tranh gây ra.

Bảo hiểm tài sản tuân thủ theo nguyên tắc bồi thường, theo đó, những thiệt hại mà rủi ro gây ra đối với tài sản của người được bảo hiểm sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường, tuy nhiên bên được bảo hiểm trong bất kì trường hợp nào cũng không thể nhận được một khoản tiền cao hơn thiệt hại thực tế mà người đó phải gánh chịu. Bảo hiểm tài sản là một loại hình bảo hiểm đối với thiệt hại, nó nhằm đảm bảo cho người được bảo hiểm có tình hình tài chính ổn định như thể rủi ro không xảy ra. Mục đích của bảo hiểm tài sản chính là khôi phục lại tình trạng như trước khi xảy ra rủi ro chứ không phải tạo ra cơ hội cho người được bảo hiểm tham gia hợp đồng bảo hiểm nhằm mục đích hưởng lợi, do đó số tiền bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm luôn tương ứng với thực tế của tài sản.

Điều kiện để người được bảo hiểm có thể được bồi thường là phải xảy ra sự kiện bảo hiểm và có thiệt hại thực tế. Việc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ căn cứ trên cơ sở tính toán mức thiệt hại thực tế, trong trường hợp xảy ra rủi ro nhưng khả năng bị thiệt hại không xuất hiện thì doanh nghiệp bảo hiểm không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường của mình.

Việc bồi thường phải được xác định trên cơ sở giá thị trường của tài sản bảo hiểm được bảo hiểm tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại (Khoản 1 Điều 46 Luật Kinh doanh bảo hiểm) và số tiền bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm…. Thông qua số tiền mà bồi thường cho doanh nghiệp xác định giới hạn trách nhiệm bồi thường, mối tương quan về giá trị trong các trường hợp bảo hiểm theo đúng giá trị, bảo hiểm dưới giá trị, bảo hiểm trên giá trị và bảo hiểm trùng. Tuy nhiên, việc quy định mức chi phí trả bồi thường này pháp luật cũng cho các bên tự thỏa thuận sao cho các bên không bị thiệt hại vẫn đảm bảo quyền lợi của mình.

Nguyên tắc bồi thường không cho phép người được bảo hiểm kiếm lời không chính đáng từ quan hệ hợp đồng bảo hiểm, từ đó nhằm ngăn chặn các hành vi gian lận, ý đồ trục lợi bảo hiểm. Để đảm bảo được điều này, ngoài việc doanh nghiệp bảo hiểm xác định đúng giá trị thực tế thiệt hại xảy ra, nguyên nhân gây thiệt hại thì doanh nghiệp bảo hiểm còn phải xác định và bồi thường các chi phí hợp lý phát sinh liên quan trực tiếp đến việc giải quyết và xử lý hậu quả sự cố, cũng như chi phí mà người được bảo hiểm có thể phải bỏ ra để thực hiện các chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm như chi phí để xác định giá thị trường và chi phí giám định thiệt hại tổn thất, chi phí cần thiết và hợp lý để đề phòng hạn chế tổn thất, chi phí đóng góp vào tổn thất chung. (Khoản 3 Điều 46 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000).

Các hợp đồng bảo hiểm tài sản có giới hạn trách nhiệm — khoản bồi hoàn tối đa mà người mua có thể nhận được đối với những tổn thất do nguy cơ được bảo hiểm. Đảm bảo người mua có đủ bảo hiểm để thay thế tài sản của mình trong trường hợp bị thiệt hại toàn bộ, nếu không, người mua sẽ thanh toán số tiền còn lại trên giới hạn của chính sách của người mua bảo hiểm. Nếu người mua bị thiệt hại hoặc mất mát về tài sản và yêu cầu bồi thường, người mua sẽ cần phải đáp ứng khoản khấu trừ trong hợp đồng của mình — số tiền yêu cầu mà người mua phải trả trước khi công ty bảo hiểm bồi hoàn cho tổn thất.

3. Hình thức bồi thường:

Tại Điều 47 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định về các hình thức bồi thường như sau:

Xem thêm: Rủi ro là gì? Những thuật ngữ liên quan trong Bảo hiểm?

Điều 47. Hình thức bồi thường

1. Bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có thể thỏa thuận một trong các hình thức bồi thường sau đây:

a) Sửa chữa tài sản bị thiệt hại;

b) Thay thế tài sản bị thiệt hại bằng tài sản khác;

c) Trả tiền bồi thường.

2. Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không thỏa thuận được về hình thức bồi thường thì việc bồi thường sẽ được thực hiện bằng tiền.

3. Trong trường hợp bồi thường theo quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu hồi tài sản bị thiệt hại sau khi đã thay thế hoặc bồi thường toàn bộ theo giá thị trường của tài sản.”

Quy định trên đã đưa ra ba hình thức bồi thường cụ thể. Các hợp đồng bảo hiểm tài sản cung cấp bảo hiểm giá trị tiền mặt thực tế hoặc bảo hiểm chi phí thay thế. Bảo hiểm giá trị tiền mặt thực tế hoàn trả giá trị của tài sản bị hư hỏng, bị mất hoặc bị đánh cắp sau khi trừ đi khấu hao — sự giảm giá trị do tuổi tác và hao mòn. Bảo hiểm chi phí thay thế hoàn trả toàn bộ chi phí để sửa chữa, thay thế hoặc xây dựng lại tài sản bị hư hỏng theo giá hiện hành. Nguyên vật liệu phải cùng chủng loại và chất lượng, vì vậy khấu hao không thành vấn đề.

Xem thêm: Bảo hiểm hỏa hoạn là gì? Đặc điểm và các khái niệm liên quan?

Tuy nhiên, trong thực tế, việc bồi thường bảo hiểm chủ yếu được thực hiện bằng tiền, vì việc thay thế tài sản thiệt hại bằng tài sản khác rất phức tạp và rất khó có căn cứ để xác định về chất lượng cũng như chủng loại tương đồng, đặc biệt là đối với những tài sản chuyên dụng hoặc vật đặc định (sẽ đơn giản hơn nếu có thể sửa chữa hoặc chỉ tiến hành thay thế một số bộ phận của tài sản bị thiệt hại).

Trả tiền bồi thường trở thành hình thức phổ biến thông thường được xác định trên hóa đơn thể hiện giá trị mua sắm lại tài sản, hoặc các hóa đơn chứng từ thể hiện tài sản đã được sửa chữa, được khôi phục. Không những thế, hình thức trả tiền bồi thường còn tạo sự linh hoạt và chủ động của các bên, thể hiện là việc các bên có thể thỏa thuận và chấp nhận về thiệt hại thực tế của đối tượng bảo hiểm mà không cần đã phải sửa chữa, hoặc đã mua sắm lại tài sản… Điều này cho phép các bên tiết kiệm được các chi phí phát sinh trong quá trình quản lý sửa chữa, cũng như khoản thuế VAT phải trả nếu tiến hành sửa chữa, ngoài ra còn tạo điều kiện cho người bảo hiểm có thể sử dụng khoản bồi thường này vào việc mua sắm thay thế hay cấp bằng tài sản khác.

Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành bồi thường bằng việc thay thế một phần hoặc toàn bộ tài sản bị thiệt hại bằng tài sản khác hay bằng bồi thường toàn bộ tài sản theo giá thị trường thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu hồi toàn bộ tài sản hoặc một phần tài sản đó tương ứng với giá trị tham gia bảo hiểm. Đây là quy định cho phép doanh nghiệp bảo hiểm có thể bán thanh lý tài sản thu hồi./.