Trường Đại học Giao thông vận tải hướng tới đào tạo người học trở thành công dân toàn cầu, có tinh thần dân tộc và trách nhiệm quốc tế. Show Nhà trường áp dụng phương pháp giáo dục tích cực, học đi đôi với hành, kiến tạo môi trường giúp người học xây dựng và rèn luyện ý thức tự học suốt đời, khả năng thích ứng với mọi hoàn cảnh nhằm phát huy tốt nhất tiềm năng và khả năng sáng tạo. Nhà trường xác định người học là trung tâm, người thầy truyền cảm hứng. Báo Cáo Thực Tập: Trường Đại Học Giao Thông Vận Tải Phân Hiệu Tại Thành Phố Hồ Chí Minh 0% found this document useful (0 votes) 336 views 1 page Copyright© © All Rights Reserved Available FormatsDOCX, PDF, TXT or read online from Scribd Share this documentDid you find this document useful?0% found this document useful (0 votes) 336 views1 page Báo Cáo Thực Tập: Trường Đại Học Giao Thông Vận Tải Phân Hiệu Tại Thành Phố Hồ Chí Minh Jump to Page You are on page 1of 1 Reward Your CuriosityEverything you want to read. Anytime. Anywhere. Any device. No Commitment. Cancel anytime. Slide UTH 1 476 downloads 02/12/2023 Logo UTH 1 348 downloads 13/10/2023 Mẫu phiếu đăng ký xét tốt nghiệp tháng 02/2022 1 114 downloads 16/02/2022 Mẫu bìa viết báo TTTN/LVTN 1 674 downloads 02/12/2023 Hướng dẫn viết báo cáo thực tập tốt nghiệp 1 625 downloads 26/08/2019 Sinh viên thực hiện: Lê Đỗ Gia Huy Giáo viên hướng dẫn: Th Kiều Anh Pháp Lớp học phần: QL22CLCB - 010441100225 Năm học: 2022 - 2023 TP, ngày 19 tháng 06 năm 2023 LỜI NÓI ĐẦUXúc tiến thương mại (XTTM) ở Việt Nam ngày càng khẳng định là công cụ không thể thiếu trong việc thúc đẩy hoạt động thương mại, góp phần tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu, nhất là trong bối cảnh nước ta đang thực hiện chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hiện nay. XTTM với tính chất là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua, bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, bao gồm các hoạt động cụ thể như khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ hay hội chợ, triển lãm thương mại không chỉ giúp các quốc gia tận dụng cơ hội và hạn chế những thách thức, khó khăn của hội nhập kinh tế quốc tế mà còn là công cụ hữu hiệu giúp các quốc gia phát triển thị trường nội địa, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và hạn chế nhập siêu. Vì vậy, có thể nói rằng XTTM được xem là cầu nối hợp tác và phát triển thương mại giữa doanh nghiệp Việt Nam và thế giới, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm cơ hội kinh doanh, tìm đối tác đầu tư, quảng bá sản phẩm, thương hiệu nhằm chinh phục người tiêu dùng cả trong và ngoài nước. Sự ra đời của Luật Thương mại năm 1999 đã tạo cơ sở quan trọng cho việc tiến hành các hoạt động XTTM nhằm tìm kiếm thị trường, tìm kiếm cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt Nam. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách trong từng giai đoạn khác nhau, hàng loạt các văn bản pháp luật đã được ban hành, có tác động trực tiếp đến hoạt động XTTM. Cụ thể là XTTM cũng đã được đề cập khá cụ thể tại Luật Thương mại 2005 và Nghị định số 37/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/4/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về XTTM (Nghị định số 37/2006/NĐ-CP), nhờ vậy mà hoạt động XTTM đã có khung pháp luật khá đầy đủ điều chỉnh, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động XTTM trên thực tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số vướng mắc kể cả về thể chế và thực thi pháp luật, nên đến nay, chế định pháp luật về XTTM vẫn còn một số bất cập cần tiếp tục hoàn thiện để thực sự phát huy hiệu quả tích cực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT● XTTM: Xúc tiến thương mại ● CNTT: Công nghệ thông tin ● B2B (Business to Business): nghĩa là mô hình bán hàng thương mại và điện tử bán hàng online giữa công ty với công ty. Các công việc giao dịch mua bán giữa hai doanh nghiệp xảy ra trên các sàn thương mại và điện tử, hoặc các kênh thương mại và điện tử của từng doanh nghiệp. CHƯƠNG 1TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC VỀ XÚCTIẾN THƯƠNG MẠI1 Khái niệm xúc tiến thương mại Theo khoản 10 Điều 3 Luật Thương mại 2005, xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại. Theo cách hiểu thông thường xúc tiến thương mại là hoạt động giới thiệu, thúc đẩy mua bán hàng hoá, dịch vụ dưới một số hoạt động cụ thể như khuyến mại, quảng cáo, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích phát triển việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ.
số 95/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương, Thông tư liên tịch số 07/2007/TTLT-BTM-BTC, Quyết định số 984/QĐ-BCT, cụ thể như sau:
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1Với việc nghiên cứu, làm rõ khái niệm, đặc điểm XTTM và pháp luật về XTTM, làm rõ các mối quan hệ mà pháp luật XTTM điều chỉnh cho chúng ta thấy một cái nhìn tổng thể về các hoạt động XTTM và pháp luật về XTTM. Qua đó, có thể thấy XTTM ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình không chỉ ở phạm vi của doanh nghiệp mà còn ở cả phạm vi quốc gia. XTTM có ý nghĩa thiết thực đối với việc đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đối với người tiêu dùng, XTTM kích thích nhu cầu mua sắm và nhờ đó tăng cường cơ hội thương mại cho doanh nghiệp. Tất cả các hình thức XTTM đều có ý nghĩa xây dựng hình ảnh đẹp về doanh nghiệp và do vậy giá trị tài sản vô hình của thương nhân được tăng cường. Hoạt động XTTM là một bộ phận cấu thành đồng bộ, không thể thiếu trong chính sách thương mại quốc gia. Vì vậy, pháp luật hiện hành của Việt Nam đã kịp thời điều chỉnh các hình thức XTTM phổ biến do thương nhân thực hiện, tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho thương nhân thực hiện quyền tự do hoạt động XTTM trong sự tôn trọng lợi ích của Nhà nước, của người tiêu dùng và thương nhân khác đồng thời là công cụ để Nhà nước kiểm soát, ngăn ngừa những tiêu cực phát sinh trong hoạt động XTTM của thương nhân, góp phần hình thành và đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh. CHƯƠNG 2THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI ỞVIỆT NAM HIỆN NAY
Cả ba phương án tương ứng với ba thời điểm khảo sát đưa ra đều có số tỷ lệ chiếm đa số, cụ thể là: Dịp lễ, Tết, ngày kỉ niệm, Dịp sinh nhật công ty, Dịp có sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mới. Kết quả khảo sát đối với các doanh nghiệp cũng có kết quả tương tự. Điều này cho thấy các chương trình khuyến mại được thương nhân thực hiện tương đối sôi động, tập trung vào những thời điểm nhu cầu của người tiêu dùng tăng cao. Một số tỉnh, thành phố còn có các chương trình khuyến mại được tổ chức tại những thời điểm khác mang tính chất thường xuyên hơn như: TP. Hồ Chí Minh (ngày cuối tuần), Hải Phòng (thời gian thực hiện khuyến mại “Tuần”, “Tháng” khuyến mại do Ủy ban nhân dân thành phố chỉ đạo thực hiện), Vũng Tàu, Đà Nẵng (khai trương cửa hàng). 2.1. Tổng hợp từ ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội 2.1.2 Tổng quan thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại a. Khuyến mại Trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, hình thức khuyến mại được doanh nghiệp lựa chọn nhiều nhất là hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi. Bên cạnh hình thức nói trên, cộng đồng doanh nghiệp cũng lựa chọn các hình thức như: Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền; bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, giá cung ứng dịch vụ trước đó; bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố; bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo việc tham dự chương trình khuyến mại mang tính may rủi (chiếm xấp xỉ 30%). Các hình thức khác chiếm tỉ lệ dưới 20%. Về hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại, các doanh nghiệp đã chỉ rõ lĩnh vực khuyến mại thường được cộng đồng doanh nghiệp áp dụng trong các ngành hàng tiêu dùng thiết yếu (chiếm 66 %), ngành hàng tiêu dùng không thiết yếu (39 %), dịch vụ tài chính (26 p%). Bên cạnh đó, cũng có một số loại hàng hóa, dịch vụ khác có thực hiện thường xuyên hoạt động khuyến mại như dịch vụ viễn thông, công nghệ thông tin ( %), dịch vụ lữ hành, tour du lịch (17- 21 %)... Về thời điểm thực hiện khuyến mại, có 02 thời điểm được đa số các doanh nghiệp lựa chọn thực hiện khuyến mại là dịp lễ tết, ngày kỉ niệm (chiếm 68 %) và dịp có sản phẩm, hàng hóa dịch vụ mới (chiếm 63%). Các dịp còn lại chủ yếu tập trung vào ngày sinh nhật của doanh nghiệp (25 %), theo mùa hay xả hàng dự trữ... Các dịp này chiếm số lượng không đáng kể so với tổng số 5% doanh nghiệp. b. Hội chợ, triển lãm Về hoạt động hội chợ triển lãm, có tất cả 15 % doanh nghiệpdoanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực này có phản hồi. Liên quan đến tần suất tổ chức hội chợ, triển lãm, khảo sát cho thấy việc tổ chức hội chợ, triển lãm trung bình được các doanh nghiệp ở các doanh nghiệp là rất khác nhau tùy theo quy mô, tính chất, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có doanh nghiệp không tổ chức nhưng có doanh nghiệp có thể tổ chức từ 3-5 sự kiện/năm. Đối với các doanh nghiệp trả lời có tổ chức hội chợ, triển lãm, trung bình hàng năm các doanh nghiệp tổ chức từ 2-3 hội chợ, triển lãm/năm. Về thời điểm tổ chức hội chợ, triển lãm, khảo sát cho thấy thời điểm tổ chức tương đối đa dạng nhưng có sự vượt trội về các tháng cuối năm (6/15 % doanh nghiệpvào Quý III và 8/15 % doanh nghiệpvào Quý IV so với 4 vào Quý I và 5 vào Quý II). c. Trưng bày hàng hóa, dịch vụ Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ là một hoạt động xúc tiến thương mại được quy định trong Luật. Trên thực tế, kết quả khảo sát cho thấy đây là một hoạt động tương đối thường xuyên của cộng đồng doanh nghiệp khi có 58 % doanh nghiệp trả lời với nội dung thường xuyên tổ chức trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ do mình kinh doanh (so với 21 % doanh nghiệp trả lời ngược lại). 2.1.2. Về thực hiện chính sách a. Về cấp độ thực hiện các thủ tục hành chính Kết quả khảo sát đối với các doanh nghiệp về cấp độ thực hiện các thủ tục hành chính cho thấy số lượng các thủ tục mà cơ quan cấp Trung ương và địa phương tiếp nhận là khá tương đương (73% ở cấp Trung ương và 63% ở cấp địa phương). Kết quả này xuất phát một phần từ lý do đa số các doanh nghiệp tham gia khảo sát đều là các doanh nghiệp lớn, thường thực hiện các chương trình khuyến mại mang tính may rủi trên phạm vi toàn quốc, hoặc các chương trình khuyến mại được tổ chức dưới hình thức mới thuộc trường hợp phải đăng ký với Cục Xúc tiến thương mại theo Điều 17 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP (Các hình thức khuyến mại mới chưa được quy định cụ thể tại Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày càng nhiều). hành chính không hướng dẫn chi tiết, đầy đủ, chi phí thực hiện cao, không có thông tin về quy định của pháp luật. 2. Những tồn tại trong hoạt động xúc tiến thương mại hiện nay Công tác xúc tiến thương mại hiện nay thiếu sự đồng bộ. Hiện nay, lĩnh vực xúc tiến thương mại trên từng địa bàn nói riêng và cả nước nói chung có sự chồng chéo, trùng lặp; sự phối hợp giữa các tổ chức xúc tiến thương mại còn nhiều hạn chế, manh mún, rời rạc chưa đạt hiệu quả cao. Hầu như mỗi tổ chức xúc tiến thương mại tiến hành một chương trình xúc tiến thương mại của riêng mình mà không có kế hoạch phối hợp, gắn kết các tổ chức khác trong tỉnh để thực hiện một chương trình xúc tiến thương mại hoàn chỉnh, đa dạng và có quy mô lớn. 2.2. Về các nội dung quy định liên quan đến thương nhân thực hiện khuyến mại (quy định tại Điều 2 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP):
nghìn chủng loại hàng hóa, dịch vụ do 01 hoặc hàng nghìn thương nhân sản xuất, cung cấp. Trên thực tế, các thương nhân này không trực tiếp khuyến mại hàng hóa, dịch vụ của họ mà chỉ có thương nhân kinh doanh phân phối tập trung thực hiện theo nhu cầu, chiến lược kinh doanh của họ. Vì vậy, việc xác định thương nhân thực hiện khuyến mại theo đúng như khái niệm quy định gặp rất nhiều khó khăn. 2.2. Về các nội dung liên quan đến nguyên tắc thực hiện khuyến mại (quy định tại các Điều 4 Nghị định 37/2006/NĐ-CP): Ngoại trừ khoản 7, tất cả các khoản từ khoản 1 đến khoản 6 đều được quy định mang tính chung chung, rất khó khăn trong việc đưa ra một cách giải thích thốn nhất cũng như áp dụng thống nhất trong việc thực thi. Cụ thể: -Tại khoản 1: Các nội dung “trung thực”, “minh bạch”, “không được xâm hại đến lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng” đều là những nội dung được xác định một cách chủ quan trong thực tiễn, không có bất kỳ tiêu chuẩn hay thước đo nào cho các tiêu chí này. Điều đó thực tiễn đã dẫn đến cách hiểu, áp dụng rất không thống nhất của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như của các doanh nghiệp.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2XTTM là hoạt động thương mại do thương nhân tiến hành với các hình thức phổ biến được quy định trong Luật thương mại. Thương nhân sử dụng quyền tự do hoạt động XTTM để tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Với mục tiêu ghi nhận quyền tự do hoạt động thương mại của thương nhân trong sự bảo đảm lợi ích của Nhà nước, của thương nhân khác và của người tiêu dùng, pháp luật về XTTM có nội dung chủ yếu quy định về các hình thức XTTM. Với tư cách là một bộ phận của pháp luật thương mại, pháp luật điều chỉnh mối quan hệ XTTM trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh. Đây cũng là yêu cầu và mục đích của pháp luật về XTTM. Đối với Việt Nam, hoạt động XTTM tuy là hoạt động còn mới mẻ nhưng nó cũng đã được Nhà nước, cộng đồng cũng như các doanh nghiệp hết sức quan tâm thông qua việc ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ này. Tuy nhiên, thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về XTTM bộc lộ khá nhiều vướng mắc, bất cập, nổi bật là những quy định trùng lặp, chồng chéo về quảng cáo và quảng cáo thương mại; những quy định hạn chế tự do thương mại và thiếu cụ thể về khuyến mại, rườm rà về thủ tục cấp phép, dẫn đến khó áp dụng và tính khả thi chưa cao. Mặt khác, pháp luật hiện hành cũng chưa đủ quy định cần thiết để kiểm soát các hoạt động thương mại diễn ra tập trung như hội chợ, triển lãm thương mại, kiểm soát tính trung thực của thương nhân hoạt động khuyến mại. Đồng thời chưa có sự thống nhất với các quy định về cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong hoạt động XTTM. |