25 cầu thủ bóng rổ hàng đầu mọi thời đại năm 2022

Kobe Bryant

Thông tin cá nhânSinhMấtQuốc tịchThống kê chiều caoThống kê cân nặngThông tin sự nghiệpTrung họcNBA DraftSự nghiệp thi đấuVị tríSốQuá trình thi đấu1996–2016Danh hiệu nổi bật và giải thưởngCareer Số liệu thống kêĐiểm sốReboundKiến tạo

Danh hiệu

Bryant trong màu áo Los Angeles Lakers năm 2015

23 tháng 8, 1978
Philadelphia, Pennsylvania
27 tháng 1, 2020 (41 tuổi)
Calabasas, California (Tai nạn trực thăng)
Hoa Kỳ
6 ft 6 in (198 cm)[a]
212 lb (96 kg)
Hạ Merion
(Ardmore, Pennsylvania)
1996 / Vòng: 1 / Chọn: 13 tổng
Được lựa chọn bởi Charlotte Hornets
1996–2016
Hậu vệ ghi điểm
8, 24
Los Angeles Lakers
  • 5× Vô địch NBA (2000, 2001, 2002, 2009, 2010)
  • 2× Cầu thủ xuất sắc nhất trận chung kết NBA (2009, 2010)
  • Cầu thủ xuất sắc nhất NBA (2008)
  • 18× NBA All-Star (1998, 2000–2016)
  • 4× Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu NBA All-Star (2002, 2007, 2009, 2011)
  • 11× All-NBA First Team (2002–2004, 2006–2013)
  • 2× All-NBA Second Team (2000, 2001)
  • 2× All-NBA Third Team (1999, 2005)
  • 9× NBA All-Defensive First Team (2000, 2003, 2004, 2006–2011)
  • 3× NBA All-Defensive Second Team (2001, 2002, 2012)
  • 2× Quán quân ghi điểm NBA (2006, 2007)
  • NBA Slam Dunk Contest champion (1997)
  • NBA All-Rookie Second Team (1997)
  • Số áo vinh danh tại Los Angeles Lakers (8 và 24)
  • Naismith Prep Player of the Year (1996)
  • Parade All-American (1996)
33.643 (25,0 điểm/trận)
7.047 (5,2 rebound/trận)
6.306 (4,7 kiến tạo/trận)
Bóng rổ nam Đại diện cho
 
USA
Thế vận hội Mùa hèFIBA Americas Championship
Bắc Kinh 2008 ĐTQG
Luân-đôn 2012 ĐTQG
Las Vegas 2007 ĐTQG

Kobe Bean Bryant (23 tháng 8 năm 1978 – 26 tháng 1 năm 2020) là một cầu thủ bóng rổ chuyên nghiệp người Mỹ. Là một hậu vệ ghi điểm, Bryant dành toàn bộ sự nghiệp trọn vẹn 20 mùa giải tại Giải bóng rổ Nhà nghề Mỹ (NBA) thi đấu cho đội bóng Los Angeles Lakers. Anh gia nhập thẳng vào NBA sau khi học xong trung học và giành được năm chức vô địch NBA. Bryant có 18 lần có mặt trong đội hình All-Star, 15 lần có mặt trong Đội hình toàn NBA, 12 lần có mặt trong Đội hình phòng ngự toàn NBA, và được mệnh danh là Cầu thủ có Giá trị nhất NBA (MVP) vào năm 2008. Được công nhận rộng rãi là một trong những cầu thủ bóng rổ vĩ đại nhất mọi thời đại,[3][4][5][6] anh dẫn dầu danh sách cầu thủ ghi điểm nhiều nhất tại NBA trong hai mùa giải liên tiếp, xếp thứ tư trong danh sách cầu thủ ghi nhiều điểm nhất mọi thời đại trong mùa giải thường của giải đấu, và xếp thứ tư trong danh sách cầu thủ ghi nhiều điểm nhất mọi thời đại trong giai đoạn hậu mùa giải. Bryant là hậu vệ đầu tiên trong lịch sử NBA chơi trong ít nhất 20 mùa giải. Theo Forbes, giá trị tài sản ròng của Bryant ước tính khoảng 350 triệu đô la trong năm 2016.[7]

Bryant là con trai của cựu cầu thủ NBA Joe Bryant. Anh học trường Trung học Hạ Merion ở Pennsylvania, nơi anh được công nhận là cầu thủ bóng rổ trung học hàng đầu toàn quốc. Sau khi tốt nghiệp, anh tuyên bố tham gia kì NBA draft năm 1996 và được lựa chọn bởi Charlotte Hornets ở lượt lựa chọn chung cuộc thứ 13; Hornets sau đó trao đổi anh với Lakers. Khi còn là một tân binh, Bryant nổi tiếng là một người thích bật nhảy cao và được người hâm mộ yêu thích khi chiến thắng cuộc thi Slam Dunk Contest năm 1997, và anh được vinh danh là một All-Star trong mùa giải thứ hai. Bất chấp sự thù địch giữa hai người, Bryant và Shaquille O'Neal đã dẫn dắt Lakers tới ba chức vô địch NBA liên tiếp từ năm 2000 tới 2002.

Năm 2003, Bryant bị một nhân viên khách sạn 19 tuổi buộc tội tấn công tình dục. Các cáo buộc đã được rút lại sau khi nguyên đơn từ chối làm chứng trước tòa và một vụ kiện dân sự đã được giải quyết ngoài tòa án. Bryant đã đưa ra một lời xin lỗi công khai, và các cáo buộc được coi là đã làm tổn hại đến hình ảnh của anh trước công chúng.[8] Sau khi Lakers thua trong trận chung kết NBA 2004, O'Neal được trao đổi qua Miami Heat và Bryant trở thành hòn đá tảng trong đội hình của Lakers. Anh dẫn đầu danh sách cầu thủ ghi nhiều điểm nhất NBA trong mùa giải 2005 –2006 và 2006 – 2007. Năm 2006, anh đã ghi được 81 điểm – số điểm cao nhất trong sự nghiệp - trước Toronto Raptors, số điểm cao thứ hai ghi được trong một trận đấu trong lịch sử giải đầu, xếp sau trận đấu 100 điểm của Wilt Chamberlain vào năm 1962. Bryant được mệnh danh là MVP mùa giải thường vào năm 2008. Sau khi Lakers thua trong trận chung kết NBA 2008, Bryant đã dẫn dắt đội đến hai chức vô địch liên tiếp vào năm 2009 và 2010, cũng như giành được Giải thưởng MVP Chung kết NBA trong cả hai trận đấu. Anh tiếp tục là một trong những cầu thủ hàng đầu của giải đấu cho đến năm 2013, khi anh bị đứt gân Achilles ở tuổi 34. Anh đã hồi phục, nhưng bị chấn thương cuối mùa ở đầu gối và vai trong hai mùa tiếp theo. Ảnh hưởng bởi sự suy giảm thể lực của mình, Bryant quyết định nghỉ hưu sau mùa giải 2015 –2016.

Ở tuổi 34, Bryant trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử giải đấu đạt cột mốc 30.000 điểm trong sự nghiệp. Anh trở thành cầu thủ ghi điểm hàng đầu mọi thời đại trong lịch sử nhượng quyền của Lakers vào ngày 1 tháng 2 năm 2010, khi anh vượt qua Jerry West. Trong năm thứ ba của mình tham dự giải đấu, Bryant đã được chọn để bắt đầu trận đấu All-Star Game, và được chọn để bắt đầu trận đấu đó trong 18 lần xuất hiện liên tiếp cho đến khi nghỉ hưu. Thành tích bốn lần đoạt Giải thưởng MVP trận đấu All-Star của anh san bằng với Bob Pettit, nhiều nhất trong lịch sử NBA. Tại Thế vận hội mùa hè 2008 và 2012, anh giành hai huy chương vàng với tư cách thành viên của đội tuyển quốc gia Hoa Kỳ. Năm 2018, anh giành được giải Oscar cho phim hoạt hình ngắn hay nhất cho bộ phim Dear Basketball.[9]

Bryant qua đời vào ngày 26 tháng 1 năm 2020, trong một tai nạn trực thăng ở Calabasas, California. Tám người khác, bao gồm cô con gái 13 tuổi Gianna Bryant, cũng bị thiệt mạng.[10][11][12]

Tuổi trẻ[sửa | sửa mã nguồn]

Kobe Bryant sinh tại Pennsylvania, là con út và là con trai duy nhất của Joe Bryant và Pam Bryant (họ còn có hai con gái, Shaya and Sharia).[13]

Khi Kobe mới 6 tuổi, bố anh rời giải NBA, chuyển đến sinh sống tại Ý, và chơi bóng rổ chuyên nghiệp tại đây. Kobe sớm thích nghi với đời sống tại đây và học tiếng Ý. Lúc bé, anh học chơi bóng đá và đội bóng anh hâm mộ là AC Milan. Anh từng nói nếu anh vẫn còn sống ở Ý thì anh muốn trở thành 1 cầu thủ bóng đá, và đội bóng yêu thích của anh là FC Barcelona. Kobe là một fan cuồng nhiệt của HLV Barcelona Frank Rijkaard và siêu sao của Barca Ronaldinho.

Năm 1991, nhà Bryant quay về Mỹ. Kobe được cả nước Mỹ biết đến sau khi có những thành tích tuyệt vời ở trường trung học Lower Merion ở Lower Merion, ngoại ô bang Philadelphia. Điểm SAT của anh là 1080 giúp anh chắc chắn giành được học bổng Bóng rổ từ những trường Đại học nổi tiếng. Kobe nói rằng nếu anh muốn chơi bóng rổ ở trường Đại học sau khi học xong Trung học thì anh sẽ chọn Đại học Duke. Tuy nhiên, Kobe đã quyết định lên chơi chuyên nghiệp ở giải NBA.

Sự nghiệp NBA[sửa | sửa mã nguồn]

Cuộc tuyển chọn cầu thủ năm 1996[sửa | sửa mã nguồn]

Trước khi là cầu thủ được chọn thứ 13 bởi đội New Orleans Hornets vào năm 1996, cầu thủ mới 17 tuổi Kobe Bryant đã làm cho Giám đốc điều hành của Lakers là Jerry West nhiều ấn tượng. Họ đã nhìn được Bryant, người mà sau đó thấy được tài năng thiên phú và khả năng chơi bóng của Kobe trong quá trình tập luyện trước cuộc tuyển chọn. Ông ta sau đó nói rằng khả năng tập luyện của Kobe là một trong những khả năng tốt nhất mà ông từng được chứng kiến. Ngay sau cuộc tuyển chọn, Kobe nói rằng anh không muốn chơi cho Hornets và muốn chơi cho Lakers. 15 ngày sau, West đổi trung phong chính của đội là Vlade Divac cho Hornets để lấy cầu thủ trẻ Kobe Bryant.

Hai mùa bóng đầu tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Trong mùa giải đầu tiên, Bryant phải thường xuyên ra sân từ đội hình dự bị, thay cho Eddie Jones và Nick Van Exel. Ban đầu, thời gian ra sân của anh rất ít, nhưng sau đó, anh bắt đầu được chơi thường xuyên hơn và thời gian ra sân cũng vì thế mà tăng lên. Anh nổi tiếng vì là 1 [High-flyer] và là cầu thủ được nhiều fan hâm mộ sau khi vô địch cuộc thi Slam Dunk Contest năm 1997.

Vào năm thứ 2 (1997 – 1998), anh nhận được thời gian ra sân nhiều hơn và bắt đầu chứng tỏ được khả năng của 1 hậu vệ tài năng. Anh xếp thứ 2 trong cuộc bình chọn NBA's Sixth Man of the Year Award, và từ các lá phiếu của fan, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất trong đội hình chính của Đội hình siêu sao NBA (NBA's All-stars). Khi mà các chỉ số của anh đủ ấn tượng cho 1 cầu thủ trẻ thì anh vẫn là một hậu vệ trẻ còn thiếu kinh nghiệm để cùng với Shaquille O'Neal giúp đội bóng giành được chức vô địch. Năm 1998 – 1999 đánh dấu sự nổi lên của Kobe sau khi 2 hậu vệ chính là Eddie Jones và Nick Van Exel được đổi đi sau lời yêu cầu của Shaq. Kết quả vẫn không được tốt sau khi Lakers bị đè bẹp bởi San Antonio Spurs ở trận bán kết Miền Tây.

3 Năm liền vô địch NBA[sửa | sửa mã nguồn]

Vận may của Kobe bắt đầu thay đổi sau khi Phil Jackson trở thành huấn luyện viên của Los Angeles Lakers năm 1999. Sau những năm tháng với những sự tiến bộ vững chắc, Kobe đã trở thành một trong những hậu vệ ghi điểm hàng đầu của giải, bằng chứng là anh thường xuyên xuất hiện trong đội hình xuất sắc của NBA (All-NBA), đội hình siêu sao(All-Star), đội hình phòng thủ (All-Defensive). CLB Los Angeles Lakers đã trở thành đội bóng thường xuyên cạnh tranh cho chức vô địch dưới sự dẫn dắt của Kobe và Shaquille O'Neal, bộ đôi trở thành 1 sự kết hợp trung phong-hậu vệ khét tiếng. Jackson sử dụng chiến thuật tấn công hình tam giác mà ông đã sử dụng để dành 6 chức vô địch cùng với Chicago Bulls giúp Lakers trở thành CLB xuất sắc của NBA. Thành công của họ giúp cho Lakers giành 3 chức vô địch liên tiếp vào các năm 2000, 2001 và 2002.

Sự kết thúc một triều đại[sửa | sửa mã nguồn]

Trong mùa bóng 2002-03, Kobe ghi trung bình 30 điểm mỗi trận và có một trong những chuỗi ghi điểm ấn tượng trong lịch sử NBA, anh ghi 40 điểm trong 9 trận đấu liên tiếp và ghi trung bình 40.6 điểm trong nguyên tháng hai. Thêm vào đó, anh còn bắt trung bình 6.9 lần bóng bật bảng và có trung bình 5.9 lần chuyền bóng cho đồng đội ghi điểm, 2.2 lần cướp bóng mỗi trận, tất cả các thông số đều là đỉnh cao của sự nghiệp. Lần đầu tiên trong sự nghiệp, Kobe được bình chọn để có mặt trong đội hình 1 của đội hình xuất sắc nhất NBA (All-NBA 1st Team), và đội hình 1 của đội hình phòng thủ xuất sắc nhất NBA (All-Defensive 1st Team). Sau khi kết thúc mùa giải với thành tích 50-32, CLB Lakers thi đấu không được tốt ở vòng đấu Playoff và thua ở bán kết miến Tây trước San Antonio Spurs, sau đó là nhà vô địch, trong 6 game.

Ở mùa giải 2003-04 sau đó, CLB Lakers đã chiêu mộ 2 siêu sao là Karl Malone và Gary Payton để 1 lần nữa có thể chinh phục chức vô địch. Với đội hình mà 4 người sẽ vào tòa nhà Danh vọng trong tương lai, Shaquille O'Neal, Karl Malone, Gary Payton và Kobe Bryant, Lakers đã vào chung kết NBA. Trong trận chung kết, họ bị đánh bại bởi CLB Detroit Pistons trong 5 game. Trong series đó, Kobe ghi trung bình 22.6 điểm mỗi trận, ném thành công 35.1% các pha ném rổ của mình, và 4.4 pha chuyền bóng thành công.

Mùa giải 2004-05[sửa | sửa mã nguồn]

Với hình ảnh đã bị tổn hại nhiều sau mùa giải trước, Kobe đã bị soi mói và chỉ trích rất nhiều trong suốt cả mùa giải. Mùa giải đầu tiên không còn sát cánh cùng O'Neal đã trở thành cơn ác mộng cho anh.

Đầu tiên là cuốn sách "The Last Season: A team in Search of its soul" (Tạm dịch: "Đội bóng trên con đường tìm kiếm sức sống của mình"). Cuốn sách cho biết những chuyện gây xôn xao dư luận trong đội Lakers vào mùa giải 2003-04 và có nhiều lời chỉ trích dành cho Kobe. Đặc biệt, Jackson còn cho biết Kobe là một cầu thủ không thể huấn luyện được.

Sau đó, chỉ mới nửa mùa giải trôi qua, HLV Rudy Tomjanovich rời khỏi băng ghế huấn luyện vì lý do sức khỏe và bị kiệt sức. Không có "Rudy T", cương vị dẫn dắt Lakers cho phần còn lại của mùa bóng được dao cho trợ lý Frank Hamblen. Mặc dù Kobe vẫn là cầu thủ ghi điểm nhiều thứ nhì NBA với 27.6 điểm mỗi trận, CLB Lakers đã thi đấu không thành công và không được vào vòng Playoff lần đầu tiên sau hơn 1 thập kỷ. Chính mùa giải này, đã làm cho vị trí của Kobe trong NBA giảm sút nghiêm trọng, anh không được vào đội hình phòng ngự tiêu biểu (All-Defensive), bị rớt xuống đội 3 của đội hình xuất sắc NBA (All-NBA 3rd Team).

Mùa giải 2005-06[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa giải 2005-06 đã trở thành một bước ngoặt trong sự nghiệp bóng rổ của Kobe. Mặc dù có rắc rối với Kobe lúc trước, Phil Jackson trở lại dẫn dắt CLB Los Angeles Lakers. Kobe tán thành việc quay lại của Jackson và cả hai cùng sát cánh trong lần thứ 2 này để giúp cho Lakers tiến vào vòng Playoff. Kobe cũng đã làm hòa với đồng đội cũ Shaquille O'Neal. Đội bóng giành được thành tích 45-37, 11 trận thắng nhiều hơn mùa giải trước, đội bóng dường như đang trên quay lại thời kì đỉnh cao.

Trong vòng 1 của Playoff, Lakers chơi rất tốt và dẫn trước Phoenix Suns 3-1 ở series, và chỉ cách có 6 giây để loại được Suns. Mặc dù Kobe đã có cú Buzzer beater tuyệt vời, đánh bại CLB Suns trong game 4, Lakers đã sụp đổ và cuối cùng để thua Phoenix Suns trong 7 game. Sau mùa giải, Kobe phải trải qua 1 cuộc phẫu thuật đầu gối, do đó anh không thể tham gia giải vô địch bóng rổ thế giới năm 2006.

Kobe đã có một mùa giải với các thành tích ghi điểm tốt nhất trong sự nghiệp của anh. Vào ngày 20 tháng 12, Kobe ghi 62 điểm trong chỉ 3 hiệp đấu trước CLB Dallas Mavericks. Kết thúc hiệp 3, Kobe đã ghi nhiều hơn toàn bộ các cầu thủ của Dallas Mavericks cộng lại(62-61), anh là cầu thủ đầu tiên làm được điều này kể từ khi đồng hồ ném rổ 24 giây xuất hiện. Khi Lakers gặp Miami Heat vào ngày 16 tháng 1 năm 2006, Kobe và Shaq được chú ý đến sau khi cả hai bắt tay và ôm nhau trước trận đấu, chấm dứt sự thù hận của 2 người kể từ khi Shaq rời Los Angeles. Một tháng sau, tại trận đấu giữa các siêu sao, cả hai lại cùng cười đùa và giỡn nhau. Vào ngày 22 tháng 1, Kobe ghi 81 điểm trong trận thắng 122-104 trước Toronto Raptors. Phá vỡ kỷ lục ghi điểm của CLB, 71 điểm bởi Elgin Baylor, số điểm của anh trong trận đấu chỉ đứng sau kỷ lục ghi 100 điểm trong 1 trận của Wilt Chamberlain năm 1962.

Cũng trong tháng 1, Kobe đã trở thành cầu thủ đầu tiên kể từ năm 1965 ghi nhiều hơn 45.1 điểm trong 4 trận liên tiếp, cùng với Wilt Chamberlain và Elgin Baylor. Trong tháng 1, Kobe ghi trung bình 43.4 điểm 1 trận, cao thứ 8 trong lịch sử số điểm ghi trung bình 1 tháng, cao hơn tất cả các cầu thủ còn lại ngoại trừ Wilt Chamberlain. Kết thúc mùa giải, Kobe lập kỷ lục CLB với số trận ghi hơn 40 điểm (27 trận), tổng số điểm nhiều nhất (2,832). Anh lần đầu tiên trở thành vua ghi điểm, với số điểm trung bình (35.4). Kobe đứng thứ 4 trong cuộc bình chọn cầu thủ xuất sắc của mùa giải (MVP), tuy nhiên anh nhận được 22 phiếu bầu anh xuất sắc nhất, chỉ sau người chiến thắng là Steve Nash.

Cuối mùa giải, có tin cho biết Kobe sẽ chuyển số áo của anh từ số 8 sang 24 khi bắt đầu mùa giải mới. Số áo đầu tiên khi học trung học của anh là 24, trước anh khi chuyển qua số 33. Sau khi mùa giải của Lakers kết thúc, Kobe trả lời trên đài TH TNT là anh muốn mặc số 24 khi anh còn là lính mới, nhưng nó đã có người mặc, cũng như số 33, số đã không còn sử dụng để thể hiện sự kính trọng với Kareem Abdul-Jabbar. Kobe mặc áo số 143 ở trại Adidas ABCD, và chọn số 8 sau khi cộng các số đó lại. Anh cũng đã từng mặc số 8 khi còn sống ở Ý, như một cách thể hiện sự kính trọng với Mike D'Antoni, thần tượng lúc nhỏ của anh và cũng mặc áo số 8.

Mùa giải 2006-07[sửa | sửa mã nguồn]

Vào mùa giải 2006-07, Kobe lần thứ 9 được chọn vào đội hình Các siêu sao NBA (NBA All-Stars), và vào ngày 18 tháng 2, Kobe ghi 31 điểm, có 6 lần bắt bóng bật bảng, 6 đường chuyền thành bàn, 6 lần cướp bóng ở trận đấu giữa các siêu sao, Kobe lần thứ 2 nhận được danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất của các siêu sao.

Trong suốt mùa giải, Kobe vướng vào nhiều vụ rắc rối trên sân. Vào ngày 28 tháng 1, khi Kobe định kiếm phạt trong 1 pha bóng có thể là ném rổ giành chiến thắng, anh để cùi chỏ của mình đập vào mặt hậu vệ Manu Ginobili của San Antonio Spurs. Ginobili sau đó cũng cho rằng Kobe không cố ý và chính Kobe cũng đã xin lỗi anh ngay sau pha bóng đó. Sau khi Liên đoàn xem lại băng ghi hình, Kobe bị cấm thi đấu 1 trận gặp New York Knicks ở Madison Square Garden, dựa vào việc anh có hành động không bình thường khi cử động cùi chỏ. Sau đó, vào ngày 6 tháng 3, Kobe được xem như đã lập lại hành động đó với hậu vệ Marco Jaric của Minnesota Timberwolves. Ngày 7 tháng 3, NBA lần thứ 2 treo cấm Kobe thi đấu 1 trận, dẫn tới việc nhiều bình luận viên đặt ra câu hỏi về việc này. Trong trận đấu đầu tiên quay lại, anh thúc cùi chỏ vào mặt Kyle Korver mà sau đó đã được xếp lại thành lỗi thô bạo loại 1.

Vào ngày 16 tháng 3, Kobe ghi 65 điểm, nhiều nhất của anh trong mùa, trong trận đấu trên sân nhà trước Portland Trail Blazer, giúp Lakers kết thúc chuỗi 7 trận thua. Đây là trận ghi nhiều điểm thứ 2 trong sự nghiệp 11 năm của anh. Trong trận tiếp theo, anh ghi 50 điểm trước Minnesota Timberwolves, sau đó ghi tiếp 60 điểm trước Memphis Grizzles - trở thành cầu thủ thứ hai của Lakers làm được điều này, thành tích chưa ai lập được kể từ khi Michael Jordan lần cuối cùng lập được vào năm 1987. Cầu thủ Lakers khác cũng làm được điều này là Elgin Baylor, người mà ghi hơn 50 điểm trong 3 trận liên tiếp vào tháng 12 năm 1962. Vào ngày 23 tháng 3, trong trận đấu trước New Orleans Hornets, Kobe ghi 50 điểm, giúp cho anh trở thành cầu thủ thứ 2 trong lịch sử có 4 trận liên tiếp ghi hơn 50 điểm, đứng sau Wilt Chamberlain, người mà dẫn đầu với thành tích 2 lần có 7 trận liên tiếp ghi hơn 50 điểm. Bryant kết thúc mùa giải với 10 trận đấu ghi hơn 50 điểm và trở thành cầu thủ thứ 2 sau Wilt Chamberlain làm được điều này vào mùa giải 1961-62,1962-63, và anh cũng trở thành vua ghi điểm lần thứ 2 liên tiếp.

Trong mùa giải 2006-07, áo thi đấu của Kobe trở thành chiếc áo được nhiều người mua nhất ở Mỹ và Trung Quốc. Các nhà báo cũng là người giúp cho việc tăng doanh thu của chiếc áo thi đấu mang số mới của Kobe, cũng như việc thi đấu thành công trên sân cũng giúp cho việc này. Nhưng trong vòng Playoff, Lakers lại tiếp tục bị loại bởi Phoenix Suns trong vòng đầu.

Mùa giải 2007-08[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa giải mới bắt đầu với việc ESPN[14] đưa tin Kobe muốn chuyển đi nếu như Jerry West không trở lại quản lý Los Angeles Lakers. Kobe sau đó cho biết anh rất mong muốn Jerry West quay lại với đội, nhưng lại từ chối việc anh muốn chuyển đi nếu điều này không xảy ra. Tuy nhiên, 3 ngày sau đó, trên chương trình radio của Stephen A. Smith, anh biểu lộ sự giận dữ đối với 1 người ở trong ban quản lý của Lakers đã nói Kobe là nguyên nhân dẫn đến sự ra đi của Shaquille O'Neal, và chính thức nói rằng anh muốn chuyển đi. Ba giờ sau đó, Kobe lại nói ở trong một cuộc phỏng vấn khác rằng: sau khi có cuộc nói chuyện với Phil Jackson, anh đã rút lại lời nói trên và không muốn chuyển đi nữa[15].

Sau đó, mặc dù bị chấn thương ở bàn tay nhưng anh vẫn quyết định tiếp tục thi đấu mà không cần giải phẫu. Anh đã chơi tất cả 82 trận trong mùa giải 2007-08. Los Angeles Lakers kết thúc mùa giải với thành tích 57-25, đứng đầu ở Miền Tây. Họ gặp lần lượt Denver Nuggets, Utah Jazz và San Antonio Spurs trên con đường tới trận chung kết gặp Boston Celtics, nơi mà họ đã thua trong 6 game.

Hai chức vô địch liên tiếp (2009 – 2010)[sửa | sửa mã nguồn]

Thống kê sự nghiệp NBA[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích
  GP Số trận   GS  Số trận ra sân  MPG  Số phút mỗi trận
 FG%  Tỉ lệ ném  3P%  Tỉ lệ ném 3 điểm  FT%  Tỉ lệ ném phạt
 RPG  Số rebound mỗi trận  APG  Số kiến tạo mỗi trận  SPG  Số cướp bóng mỗi trận
 BPG  Số block mỗi trận  PPG  Số điểm mỗi trận  In đậm  Kỉ lục cá nhân
Biểu thị các mùa trong đó Bryant giành chức vô địch NBA
* Dẫn dắt giải đấu

Mùa giải thông thường[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Đội GPGSMPGFG%3P%FT%RPGAPGSPGBPGPPG
1996-97 L.A. Lakers 71 6 15.5 .417 .375 .819 1.9 1.3 .7 .3 7.6
1997-98 L.A. Lakers 79 1 26.0 .428 .341 .794 3.1 2.5 .9 .5 15.4
1998-99 L.A. Lakers 50 50 37.9 .465 .267 .839 5.3 3.8 1.4 1.0 19.9
1999-00† L.A. Lakers 66 62 38.2 .468 .319 .821 6.3 4.9 1.6 .9 22.5
2000-01† L.A. Lakers 68 68 40.9 .464 .305 .853 5.9 5.0 1.7 .6 28.5
2001-02† L.A. Lakers 80 80 38.3 .469 .250 .829 5.5 5.5 1.5 .4 25.2
2002-03 L.A. Lakers 82 82 41.5 .451 .383 .843 6.9 5.9 2.2 .8 30.0
2003-04 L.A. Lakers 65 64 37.6 .438 .327 .852 5.5 5.1 1.7 .4 24.0
2004-05 L.A. Lakers 66 66 40.7 .433 .339 .816 5.9 6.0 1.3 .8 27.6
2005-06 L.A. Lakers 80 80 41.0 .450 .347 .850 5.3 4.5 1.8 .4 35.4*
2006-07 L.A. Lakers 77 77 40.8 .463 .344 .868 5.7 5.4 1.4 .5 31.6*
2007-08 L.A. Lakers 82 82 38.9 .459 .361 .840 6.3 5.4 1.8 .5 28.3
2008-09† L.A. Lakers 82 82 36.1 .467 .351 .856 5.2 4.9 1.5 .5 26.8
2009-10† L.A. Lakers 73 73 38.8 .456 .329 .811 5.4 5.0 1.5 .3 27.0
2010-11 L.A. Lakers 82 82 33.9 .451 .323 .828 5.1 4.7 1.2 .1 25.3
2011-12 L.A. Lakers 58 58 38.5 .430 .303 .845 5.4 4.6 1.2 .3 27.9
2012-13 L.A. Lakers 78 78 38.6 .463 .324 .839 5.6 6.0 1.4 .3 27.3
2013-14 L.A. Lakers 6 6 29.5 .425 .188 .857 4.3 6.3 1.2 .2 13.8
2014-15 L.A. Lakers 35 35 34.5 .373 .293 .813 5.7 5.6 1.3 .2 22.3
2015-16 L.A. Lakers 66 66 28.2 .358 .285 .826 3.7 2.8 .9 .2 17.6
Career 1,346 1,198 36.1 .447 .329 .837 5.2 4.7 1.4 .5 25.0
All-Star 15 15 27.6 .500 .324 .789 5.0 4.7 2.5 .4 19.3

Playoffs[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Đội GPGSMPGFG%3P%FT%RPGAPGSPGBPGPPG
1997 L.A. Lakers 9 0 14.8 .382 .261 .867 1.2 1.2 .3 .2 8.2
1998 L.A. Lakers 11 0 20.0 .408 .214 .689 1.9 1.5 .3 .7 8.7
1999 L.A. Lakers 8 8 39.4 .430 .348 .800 6.9 4.6 1.9 1.3 19.8
2000† L.A. Lakers 22 22 39.0 .442 .344 .754 4.5 4.4 1.5 1.5 21.1
2001† L.A. Lakers 16 16 43.4 .469 .324 .821 7.3 6.1 1.6 .8 29.4
2002† L.A. Lakers 19 19 43.8 .434 .379 .759 5.8 4.6 1.4 .9 26.6
2003 L.A. Lakers 12 12 44.3 .432 .403 .827 5.1 5.2 1.2 .1 32.1
2004 L.A. Lakers 22 22 44.2 .413 .247 .813 4.7 5.5 1.9 .3 24.5
2006 L.A. Lakers 7 7 44.9 .497 .400 .771 6.3 5.1 1.1 .4 27.9
2007 L.A. Lakers 5 5 43.0 .462 .357 .919 5.2 4.4 1.0 .4 32.8
2008 L.A. Lakers 21 21 41.1 .479 .302 .809 5.7 5.6 1.7 .4 30.1
2009† L.A. Lakers 23 23 40.8 .457 .349 .883 5.3 5.5 1.7 .9 30.2
2010† L.A. Lakers 23 23 40.1 .458 .374 .842 6.0 5.5 1.3 .7 29.2
2011 L.A. Lakers 10 10 35.4 .446 .293 .820 3.4 3.3 1.6 .3 22.8
2012 L.A. Lakers 12 12 39.7 .439 .283 .832 4.8 4.3 1.3 .2 30.0
Sự nghiệp 220 200 39.3 .448 .331 .816 5.1 4.7 1.4 .6 25.6

Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]

Vào 9:06 sáng giờ chuẩn Thái Bình Dương ngày 26 tháng 1 năm 2020, một chiếc trực thăng Sikorsky S-76 thuộc sở hữu của Bryant khởi hành từ Sân bay John Wayne ở Orange County, California, với chín người trên trực thăng: Bryant, cô con gái 13 tuổi Gianna (Gigi), bạn tập của Gigi và cha mẹ của họ (bao gồm huấn luyện viên bóng chày của trường Cao đẳng Orange Coast John Altobelli, vợ Keri và con gái Alyssa, Sarah Chester, và con gái Payton[16]), huấn luyện viên bóng rổ Christina Mauser và phi công Ara Zobayan.[17][18][19][20] Máy bay trực thăng đã được đăng ký cho Island Express Holding Corp có trụ sở tại Fillmore, theo cơ sở dữ liệu kinh doanh của Văn phòng Đổng lý của California.[21] Cả nhóm đang đi đến Học viện Mamba của Bryant cho một buổi luyện tập khi chiếc trực thăng bị rơi ở Calabasas.[16]

Do mưa nhẹ và thời tiết sương mù sáng hôm đó, các máy bay trực thăng của LAPD[20] và hầu hết các phương tiện giao thông hàng không khác đều bị buộc phải hạ cánh.[22] Dữ liệu theo dõi chuyến bay cho thấy chiếc trực thăng gặp sự cố khi ở trên không phận tương ứng với Sở thú Los Angeles. Chiếc trực thăng bay vòng quanh khu vực sáu lần ở độ cao khoảng 850 feet. Vào lúc 9:30 sáng, phi công đã liên lạc với tháp điều khiển của Sân bay Burbank,[22] thông báo cho tòa tháp về tình huống này. Vào thời điểm đó, máy bay trực thăng đang bay trong tình trạng sương mù cực độ và quay đầu về hướng nam phía dãy núi. Vào lúc 9:40 sáng, chiếc trực thăng đã lên đến độ cao 370 đến 610 mét (1.200 đến 2.000 ft) với tốc độ 161 hải lý trên giờ (298 km/h; 185 mph).[22]

Vào 9:45 sáng, trực thăng đâm vào mặt bên của một ngọn núi ở Calabasas, cách trung tâm Los Angeles khoảng 30 dặm (48 km) về phía Tây Bắc, và bắt lửa dữ dội.[22][23] Vào 9:47 sáng, cơ quan chức trách đã nhận được cuộc gọi thông báo. Chiếc trực thăng đã bay qua khu Boyle Heights, gần Sân vận động Dodger và bay vòng quanh Glendale trong suốt chuyến bay. Nhân viên của Sở cứu hỏa quận Los Angeles đã tham dự hiện trường. Đám cháy đã được dập tắt vào khoảng 10:30 sáng.[24][25] Không ai trong số chín người sống sót. Các báo cáo ban đầu chỉ ra rằng chiếc trực thăng đã bị rơi trên những ngọn đồi phía trên Calabasas trong thời tiết sương mù dày đặc.[26][27] Các nhân chứng báo cáo đã nghe thấy tiếng một chiếc trực thăng quay vòng trước khi rơi.[17]

Cục Hàng không Liên bang, Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia, và FBI[20] đã mở các cuộc điều tra về vụ tai nạn này.[28][29][30]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Shaq–Kobe feud
  • Kobe Doin' Work

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Năm 2006, Bryant nói rằng anh chỉ cao 6 foot 4 inch (1,93 m).[1] Năm 2008, anh nói rằng "có lẽ" mình cao 6 foot 5 inch (1,96 m) khi đeo giày.[2]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Mallozzi, Vincent (ngày 24 tháng 12 năm 2006). “'Where's Kobe? I Want Kobe.'”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2013.
  2. ^ Ding, Kevin (ngày 8 tháng 1 năm 2008). “Kobe Bryant's work with kids brings joy, though sometimes it's fleeting”. Orange County Register. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2013.
  3. ^ Lynch, Andrew (ngày 20 tháng 10 năm 2017). “Ranking the 25 greatest players in NBA history”. FOX Sports. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  4. ^ Moonves, Leslie (ngày 17 tháng 2 năm 2017). “50 greatest NBA players of all time”. CBS Sports. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  5. ^ Rasmussen, Bill (ngày 3 tháng 3 năm 2016). “All-Time #NBArank: Counting down the greatest players ever”. ESPN. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  6. ^ McCallum, Jack (ngày 8 tháng 2 năm 2016). “SI's 50 greatest players in NBA history”. Sports Illustrated. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  7. ^ “Kobe Bryant”. Forbes. 2016. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2020.
  8. ^ “Kobe Bryant dies in a crash”.
  9. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Oscar
  10. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên 9 on board2
  11. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Death-CNBC2
  12. ^ “NBA, sports worlds mourn the death of Kobe Bryant”. ESPN. ngày 26 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  13. ^ NBA.com. Kobe Bryant Info Page - Bio. Truy cập May 8, 2007.
  14. ^ [1]
  15. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
  16. ^ a b Ibbetson, Ross (ngày 27 tháng 1 năm 2020). “Pictured: All 9 victims of helicopter crash that killed Kobe Bryant”. Mail Online. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2020.
  17. ^ a b “Kobe Bryant, daughter Gianna among nine dead in helicopter crash in Calabasas”. Los Angeles Times. ngày 26 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  18. ^ Winton, Richard (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Kobe Bryant, daughter Gianna among nine dead in helicopter crash in Calabasas”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  19. ^ Newburger, Emma; Young, Jabari (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “NBA superstar Kobe Bryant and his daughter Gianna killed in LA-area helicopter crash”. CNBC. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  20. ^ a b c Alfonso, Fernando; Vera, Amir (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Kobe Bryant was one of five people killed in a helicopter crash in Calabasas, California”. CNN. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  21. ^ Alfonso, Fernando; Vera, Amir (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Kobe Bryant was one of five people killed in a helicopter crash in Calabasas, California”. CNN. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  22. ^ a b c d “Kobe Bryant & Daughter Die in Helicopter Crash, Photos from Her Last Game”. TMZ (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2020.
  23. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên cnn_01272020
  24. ^ Kalich, Sidney. “Lakers Great Kobe Bryant Among Five Killed in Calabasas Helicopter Crash”. NBC Los Angeles. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  25. ^ Dwork, David (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Kobe Bryant dies in California helicopter crash”. Local10.com. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  26. ^ Winton, Richard; Woike, Dan (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Kobe Bryant is killed in helicopter crash in Calabasas”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  27. ^ “Source: Kobe among dead in helicopter crash”. ESPN.com. ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  28. ^ Gaydos, Ryan (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Kobe Bryant among those killed in California helicopter crash”. Fox News. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  29. ^ Bacon, John (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Investigation underway to determine cause of helicopter Calabasas, California, crash that killed Kobe Bryant”. USA Today. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  30. ^ “Kobe Bryant: Basketball legend dies in helicopter crash”. BBC News Online. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Trang Web chính thức
  • Thống kê sự nghiệp và thông tin cầu thủ từ NBA.com, hoặc Basketball-Reference.com
  • Kobe Bryant trên IMDb
  • NBA.com – The Ultimate Kobe Page
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Kobe Bryant.

Vào năm 1997, 50 cầu thủ NBA vĩ đại nhất mọi thời đại đã được tập hợp tại Gund Arena trong buổi lễ nghỉ giải lao của trò chơi All-Star NBA. Họ được chọn vào năm 1996 bởi một hội đồng các cựu cầu thủ và huấn luyện viên, các tổng giám đốc hiện tại và trước đây, và các thành viên truyền thông. Việc lựa chọn các cầu thủ trong tập hợp các huyền thoại của trò chơi được đánh giá cao này đã được đáp ứng với những tràng pháo tay nhưng nó cũng chứa đầy tranh cãi.

Nhiều người tin rằng có một số cầu thủ xứng đáng đã không cắt giảm trong khi có những người khác không nên ở trong đó ngay từ đầu. 23 năm kể từ đó, tôi đã quyết định nhúng tay vào danh sách gây tranh cãi với một danh sách của riêng tôi và tôi đã khiến nó trở nên gây tranh cãi hơn bằng cách xếp hạng chúng. Danh sách chính thức của NBA, cũng cần cập nhật vì đã có một số người chơi tuyệt vời đã đi cùng kể từ đó.

Để xếp hạng người chơi đúng cách, trước tiên tôi phải đưa ra một danh sách 10-13 người chơi giỏi nhất trong lịch sử ở mọi vị trí và cũng xếp hạng họ. Nhưng không phải tất cả những người lọt vào top 10 của mỗi danh sách lọt vào cuối cùng của tôi 50. Một người chơi ở vị trí thứ 12 tại vị trí trung tâm, chẳng hạn, đã cắt giảm trong khi người bảo vệ bắn súng tốt nhất thứ chín của tôi bị bỏ lại. Bất kể vị trí của người chơi, nếu anh ta giỏi hơn một người chơi khác trong top 10 của một vị trí khác, anh ta có thể thực hiện & nbsp; nó vào danh sách uy tín này.

Không có thêm Ado, đây là 50 cầu thủ vĩ đại nhất của tôi trong lịch sử NBA, được xếp hạng và cập nhật (thường) để mọi người tranh luận. Bản cập nhật mới nhất, cần lưu ý, không phải là yếu tố trong mùa giải 2019-20, đây là một bản nhạc kỳ lạ, nhưng đã cho LeBron James một tiêu đề khác:

50. Bob McAdoo

Trung bình nghề nghiệp: 22,1 điểm, 9,4 rebound, 2,3 hỗ trợ 22.1 points, 9.4 rebounds, 2.3 assists

Giải thưởng MVP: 1 1

All-NBA: Đội thứ nhất 1x, Đội thứ hai 1x 1x First Team, 1x Second Team

All-Star: 5x 5x

Giải vô địch: 2 2

Mất một cách kỳ lạ trong nhóm kỷ niệm 50 năm chính thức của NBA, là một cựu MVP tên là Bob McAdoo. Thật là một trò hề khi thấy những thành tựu của McAdoo, bị bỏ qua khi giải đấu được công bố vào năm 1996.

McAdoo là một cầu thủ ghi bàn không thể ngăn cản trong thời hoàng kim, giành được danh hiệu ghi bàn trong ba trong bốn năm đầu tiên của anh ấy trong giải đấu. Anh đã giành được MVP vào năm 1975 sau khi ghi trung bình 34,5 điểm, 14,1 rebound và 2,12 khối cho mỗi cuộc thi. Sau đó, McAdoo sẽ giành được hai chiếc nhẫn vô địch của mình với Los Angeles Lakers vào năm 1982 và 1985 với tư cách là một cầu thủ có giá trị ngoài băng ghế dự bị.

49. Paul Arizin

Trung bình nghề nghiệp: 22,8 điểm, 8,6 rebound, 2,3 hỗ trợ 22.8 points, 8.6 rebounds, 2.3 assists

Giải thưởng MVP: 0 0

All-NBA: Đội thứ nhất 3x, Đội thứ hai 1x 3x First Team, 1x Second Team

All-Star: 10 lần 10x

Giải vô địch: 1: 1

Khi bước vào NBA vào năm 1950, Paul Arizin đã thực hiện cú nhảy bước đi của mình, một bước khác thường trong thời đại khi người chơi thường xuyên chụp hai tay. Hôm nay, cú nhảy là một điều của vẻ đẹp và mọi người đều có thể cảm ơn Arizin vì điều đó. Với vũ khí mới này trong kho vũ khí của mình, anh đã lãnh đạo giải đấu ghi bàn hai lần (1951-52, 1956-57).

All-Star 10 lần cuối cùng sẽ mang đến một chức vô địch cho các Chiến binh Philadelphia vào năm 1956.

48. Dolph Schayes

Trung bình nghề nghiệp: 18,5 điểm, 12,1 rebound, 3,1 hỗ trợ 18.5 points, 12.1 rebounds, 3.1 assists

Giải thưởng MVP: 0 0

All-NBA: Đội thứ nhất 3x, Đội thứ hai 1x 6x First Team, 6x Second Team

All-Star: 10 lần 12x

Giải vô địch: 1 1

Khi bước vào NBA vào năm 1950, Paul Arizin đã thực hiện cú nhảy bước đi của mình, một bước khác thường trong thời đại khi người chơi thường xuyên chụp hai tay. Hôm nay, cú nhảy là một điều của vẻ đẹp và mọi người đều có thể cảm ơn Arizin vì điều đó. Với vũ khí mới này trong kho vũ khí của mình, anh đã lãnh đạo giải đấu ghi bàn hai lần (1951-52, 1956-57).

All-Star 10 lần cuối cùng sẽ mang đến một chức vô địch cho các Chiến binh Philadelphia vào năm 1956.

48. Dolph Schayes

Trung bình nghề nghiệp: 18,5 điểm, 12,1 rebound, 3,1 hỗ trợ 19.7 points, 5.6 rebounds, 3.5 assists

Giải thưởng MVP: 0: 0

All-NBA: Đội thứ nhất 3x, Đội thứ hai 1x 1x Second Team, 3x Third Team

All-Star: 10 lần 10x

Giải vô địch: 1 1

Khi bước vào NBA vào năm 1950, Paul Arizin đã thực hiện cú nhảy bước đi của mình, một bước khác thường trong thời đại khi người chơi thường xuyên chụp hai tay. Hôm nay, cú nhảy là một điều của vẻ đẹp và mọi người đều có thể cảm ơn Arizin vì điều đó. Với vũ khí mới này trong kho vũ khí của mình, anh đã lãnh đạo giải đấu ghi bàn hai lần (1951-52, 1956-57).

All-Star 10 lần cuối cùng sẽ mang đến một chức vô địch cho các Chiến binh Philadelphia vào năm 1956.

48. Dolph Schayes

Trung bình nghề nghiệp: 18,5 điểm, 12,1 rebound, 3,1 hỗ trợ 26.2 points, 4.6 rebounds, 2.8 assists

Giải thưởng MVP: 0 0

All-NBA: Đội thứ nhất 3x, Đội thứ hai 1x 5x First Team, 2x Second Team

All-Star: 10 lần 9x

Giải vô địch: 1 0

Khi bước vào NBA vào năm 1950, Paul Arizin đã thực hiện cú nhảy bước đi của mình, một bước khác thường trong thời đại khi người chơi thường xuyên chụp hai tay. Hôm nay, cú nhảy là một điều của vẻ đẹp và mọi người đều có thể cảm ơn Arizin vì điều đó. Với vũ khí mới này trong kho vũ khí của mình, anh đã lãnh đạo giải đấu ghi bàn hai lần (1951-52, 1956-57).

Nếu chúng tôi bao gồm những ngày chơi của anh ấy trong ABA, anh ấy sẽ có tổng cộng 26.595 điểm đáng kinh ngạc. Thật tuyệt làm sao?

45. Dave Cowens

Trung bình nghề nghiệp: 17,6 điểm, 13,6 rebound, 3,8 hỗ trợ 17.6 points, 13.6 rebounds, 3.8 assists

Giải thưởng MVP: 1 1

All-NBA: Đội thứ hai 3x 3x Second Team

Tất cả phòng thủ: 1x Đội thứ nhất 2x Đội thứ hai 1x First Team 2x Second Team

All-Star: 8x 8x

Giải vô địch: 2 2

Anh ta có thể được đánh giá thấp cho một trung tâm nhưng trái tim anh ta cao chót vót trên những người đàn ông lớn khác trong thời đại của anh ta. Dave Cowens cào cào và vuốt theo cách của mình để trở thành một trong những cầu thủ giỏi nhất trong lịch sử giải đấu. MVP năm 1973 là trung tâm của Giải vô địch Celtics năm 1974 và 1976. Ông đã mang thành công ngọn đuốc từ thời kỳ Bill Russell đến kỷ nguyên Larry Bird, giữ cho ngọn lửa tồn tại cho tín hữu Boston.

44. Gary Payton

Trung bình nghề nghiệp: 16,3 điểm, 3,9 rebound, 6,7 hỗ trợ 16.3 points, 3.9 rebounds, 6.7 assists

Giải thưởng MVP: 0 0

Cầu thủ phòng thủ của năm: 1 1

All-NBA: Đội thứ nhất 2x, Đội thứ hai 5X, Đội thứ ba 2 lần 2x First Team, 5x Second Team, 2x Third Team

Tất cả phòng thủ: Đội đầu tiên 9x 9x First Team

All-Star: 9x 9x

Giải vô địch: 1: 1

Không có người bảo vệ quan điểm nào khác có thể phòng thủ tốt như Gary Payton. Trong chín năm liên tiếp, Payton là một thành viên đội một phòng thủ toàn diện và giành giải thưởng cầu thủ phòng thủ của năm vào năm 1996, cùng năm anh ấy đã dẫn đầu giải đấu về Steals.

Găng tay có thể tự mình chống lại hầu hết mọi người bảo vệ trong NBA trong những năm 90. Trong trận chung kết NBA năm 1996, với Bulls tăng 3-0 trong loạt trận, Payton yêu cầu anh bảo vệ Michael Jordan và nó đã dẫn đến hai chiến thắng của Seattle Supersonics trong trò chơi 4 và 5. Cuối cùng họ đã thua Game 6 nhưng ai biết nếu ai biết nếu ai Sonics có thể đã giành chiến thắng trong loạt trận mà anh ta bảo vệ sự không khí của mình ngay từ đầu?

43. Dominique Wilkins

Trung bình nghề nghiệp: 24,6 điểm, 6,7 rebound, 2,5 hỗ trợ 24.6 points, 6.7 rebounds, 2.5 assists

Giải thưởng MVP: 0 0

Cầu thủ phòng thủ của năm: 1 1x First Team, 4x Second Team, 2x Third Team

All-Star: 9x 9x

Giải vô địch: 1 0

Không có người bảo vệ quan điểm nào khác có thể phòng thủ tốt như Gary Payton. Trong chín năm liên tiếp, Payton là một thành viên đội một phòng thủ toàn diện và giành giải thưởng cầu thủ phòng thủ của năm vào năm 1996, cùng năm anh ấy đã dẫn đầu giải đấu về Steals.

Găng tay có thể tự mình chống lại hầu hết mọi người bảo vệ trong NBA trong những năm 90. Trong trận chung kết NBA năm 1996, với Bulls tăng 3-0 trong loạt trận, Payton yêu cầu anh bảo vệ Michael Jordan và nó đã dẫn đến hai chiến thắng của Seattle Supersonics trong trò chơi 4 và 5. Cuối cùng họ đã thua Game 6 nhưng ai biết nếu ai biết nếu ai Sonics có thể đã giành chiến thắng trong loạt trận mà anh ta bảo vệ sự không khí của mình ngay từ đầu?

43. Dominique Wilkins

Trung bình nghề nghiệp: 24,6 điểm, 6,7 rebound, 2,5 hỗ trợ 24.8 points, 6.7 rebounds, 4.9 assists

Giải thưởng MVP: 0 0

Cầu thủ phòng thủ của năm: 1

All-NBA: Đội thứ nhất 2x, Đội thứ hai 5X, Đội thứ ba 2 lần 5x First Team, 1x Second Team

All-Star: 8x 8x

Giải vô địch: 1 1

Không có người bảo vệ quan điểm nào khác có thể phòng thủ tốt như Gary Payton. Trong chín năm liên tiếp, Payton là một thành viên đội một phòng thủ toàn diện và giành giải thưởng cầu thủ phòng thủ của năm vào năm 1996, cùng năm anh ấy đã dẫn đầu giải đấu về Steals.

Găng tay có thể tự mình chống lại hầu hết mọi người bảo vệ trong NBA trong những năm 90. Trong trận chung kết NBA năm 1996, với Bulls tăng 3-0 trong loạt trận, Payton yêu cầu anh bảo vệ Michael Jordan và nó đã dẫn đến hai chiến thắng của Seattle Supersonics trong trò chơi 4 và 5. Cuối cùng họ đã thua Game 6 nhưng ai biết nếu ai biết nếu ai Sonics có thể đã giành chiến thắng trong loạt trận mà anh ta bảo vệ sự không khí của mình ngay từ đầu?

43. Dominique Wilkins

Trung bình nghề nghiệp: 24,6 điểm, 6,7 rebound, 2,5 hỗ trợ 22.8 points, 7.4 rebounds, 8.4 assists

Giải thưởng MVP: 1 1

All-NBA: Đội thứ nhất 1x, Đội thứ hai 4X, Đội thứ ba 2 lần 3x First Team, 5x Second Team, 2x Third Team

All-Star: 9x 9x

Giải vô địch: 1

Giải vô địch: 1 0

Không có người bảo vệ quan điểm nào khác có thể phòng thủ tốt như Gary Payton. Trong chín năm liên tiếp, Payton là một thành viên đội một phòng thủ toàn diện và giành giải thưởng cầu thủ phòng thủ của năm vào năm 1996, cùng năm anh ấy đã dẫn đầu giải đấu về Steals.

Găng tay có thể tự mình chống lại hầu hết mọi người bảo vệ trong NBA trong những năm 90. Trong trận chung kết NBA năm 1996, với Bulls tăng 3-0 trong loạt trận, Payton yêu cầu anh bảo vệ Michael Jordan và nó đã dẫn đến hai chiến thắng của Seattle Supersonics trong trò chơi 4 và 5. Cuối cùng họ đã thua Game 6 nhưng ai biết nếu ai biết nếu ai Sonics có thể đã giành chiến thắng trong loạt trận mà anh ta bảo vệ sự không khí của mình ngay từ đầu?

43. Dominique Wilkins

Trung bình nghề nghiệp: 24,6 điểm, 6,7 rebound, 2,5 hỗ trợ 26.7 points, 3.7 rebounds, 6.2 assists

Giải thưởng MVP: 1: 1

All-NBA: Đội thứ nhất 1x, Đội thứ hai 4X, Đội thứ ba 2 lần

Giải vô địch: 0 3x First Team, 3x Second Team, 1x Third Team

Cánh quạt nổi bật của con người không chỉ có một biệt danh thú vị mà anh ta còn có một trò chơi thực sự bảo đảm cho biệt danh này. Dominique Wilkins là một trong những người dunker có năng khiếu, sáng tạo và hung dữ nhất trên sân. Wilkins ghi nhận 26.668 điểm cho sự nghiệp của mình, thứ 13 trong danh sách ghi bàn mọi thời đại. 11x

Giải vô địch: 1: 0

Không có người bảo vệ quan điểm nào khác có thể phòng thủ tốt như Gary Payton. Trong chín năm liên tiếp, Payton là một thành viên đội một phòng thủ toàn diện và giành giải thưởng cầu thủ phòng thủ của năm vào năm 1996, cùng năm anh ấy đã dẫn đầu giải đấu về Steals.

Găng tay có thể tự mình chống lại hầu hết mọi người bảo vệ trong NBA trong những năm 90. Trong trận chung kết NBA năm 1996, với Bulls tăng 3-0 trong loạt trận, Payton yêu cầu anh bảo vệ Michael Jordan và nó đã dẫn đến hai chiến thắng của Seattle Supersonics trong trò chơi 4 và 5. Cuối cùng họ đã thua Game 6 nhưng ai biết nếu ai biết nếu ai Sonics có thể đã giành chiến thắng trong loạt trận mà anh ta bảo vệ sự không khí của mình ngay từ đầu?

43. Dominique Wilkins

Trung bình nghề nghiệp: 24,6 điểm, 6,7 rebound, 2,5 hỗ trợ 20.4 points, 6.1 rebounds, 5.6 assists

Giải thưởng MVP: 0 0

All-NBA: Đội thứ nhất 1x, Đội thứ hai 2x, Đội thứ ba 2 lần 1x First Team, 2x Second Team, 2x Third Team

All-Star: 10 lần 10x

Giải vô địch: 1: 1

Sau đó, Michael Michael Jordan West là một trong những cách mà mọi người sẽ mô tả Clyde, The Glide, Drexler. Anh ấy đã mô phỏng trò chơi của mình sau Jordan giống như cách mà Kobe Bryant đã làm kể từ khi Drexler đến NBA trước sự không hợp của anh ấy, nhưng Glide cũng chơi trên tầng bình lưu. Trò chơi toàn diện của anh ấy đã phân biệt anh ấy và Jordan với các vệ sĩ bắn súng khác.

Bắt đầu sự nghiệp của mình với Portland Trail Blazers và đi đến trận chung kết hai lần với họ, đó là cho đến khi anh được giao dịch với Houston Rockets vào năm 1995 khi anh giành được chức vô địch. Đối với sự nghiệp của mình, All-Star 10 lần ghi nhận hơn 20.000 điểm, 6.000 rebound, 6.000 hỗ trợ và 2.000 lần đánh cắp. Đó là một minh chứng cho trò chơi hoàn chỉnh của mình.

38.Chris PaulChris Paul

Trung bình nghề nghiệp: 18,1 điểm, 4,5 rebound, 9,5 hỗ trợ 18.1 points, 4.5 rebounds, 9.5 assists

Giải thưởng MVP: 0 0

Rookie của năm 2006

All-NBA: Đội thứ nhất 4X, Đội thứ hai 5X, Đội thứ ba 1x: 4x First Team, 5x Second Team, 1x Third Team

Tất cả phòng thủ: Đội thứ nhất 7x, Đội thứ hai 2x: 7x First Team, 2x Second Team

All-Star: 12x: 12x

Giải vô địch: 0: 0

Những người bảo vệ điểm chơi gần như là một giống chó sắp chết nhưng nó sống ở Chris Paul. Phao -lô là một người trở lại thời điểm mà những người bảo vệ Point tìm cách tạo ra cho người khác trước và ghi bàn thứ hai. Anh ấy đã dẫn đầu giải đấu hỗ trợ bốn lần trong sự nghiệp của anh ấy cho đến nay nhưng khả năng ghi bàn của anh ấy không phải là một người được xem nhẹ vì anh ấy trung bình gần 19 điểm một trận đấu.

Paul là một hậu vệ xuất sắc, dẫn đầu giải đấu đánh cắp sáu lần và tích lũy 2.220, tốt cho lần thứ 7 trong lịch sử giải đấu.

37. George Mikan

Trung bình nghề nghiệp: 23,1 điểm, 13,4 rebound, 2,8 hỗ trợ: 23.1 points, 13.4 rebounds, 2.8 assists

Giải thưởng MVP: 1: 1

All-NBA: 6x Đội đầu tiên 6x First Team

All-Star: 4x: 4x

Giải vô địch: 5: 5

Là người đàn ông lớn đầu tiên của League League, George Mikan đã dẫn dắt đội bóng thành phố Minneapolis tới năm giải vô địch trong sáu mùa từ năm 1949 đến 1954. Không ai có thể ngăn chặn trung tâm 6 feet 10 vào làn đường và thống trị những người chơi nhỏ hơn.

Mikan thực sự đã thay đổi trò chơi khi giải đấu mở rộng làn đường từ sáu đến 12 feet vào năm 1951 để ngăn anh ta ghi bàn quá dễ dàng. Anh ấy đã cung cấp theo cách của mình đến 23,1 điểm và 13,4 rebound mỗi trận. Cú sút được cấp bằng sáng chế của anh ấy là tổ tiên của Kareem Abdul-Jabbar, nổi tiếng hơn Skyhook.

36. Willis Reed

Trung bình nghề nghiệp: 18,7 điểm, 12,9 rebound, 1,8 hỗ trợ 18.7 points, 12.9 rebounds, 1.8 assists

Giải thưởng MVP: 1 1

All-NBA: 6x Đội đầu tiên: 1x First Team, 4x Second Team

All-Star: 4x 7x

Giải vô địch: 5 2

Là người đàn ông lớn đầu tiên của League League, George Mikan đã dẫn dắt đội bóng thành phố Minneapolis tới năm giải vô địch trong sáu mùa từ năm 1949 đến 1954. Không ai có thể ngăn chặn trung tâm 6 feet 10 vào làn đường và thống trị những người chơi nhỏ hơn.

Mikan thực sự đã thay đổi trò chơi khi giải đấu mở rộng làn đường từ sáu đến 12 feet vào năm 1951 để ngăn anh ta ghi bàn quá dễ dàng. Anh ấy đã cung cấp theo cách của mình đến 23,1 điểm và 13,4 rebound mỗi trận. Cú sút được cấp bằng sáng chế của anh ấy là tổ tiên của Kareem Abdul-Jabbar, nổi tiếng hơn Skyhook.

36. Willis Reed 14.3 points, 3.0 rebounds, 8.5 assists

Trung bình nghề nghiệp: 18,7 điểm, 12,9 rebound, 1,8 hỗ trợ 2

All-NBA: Đội thứ nhất 1x, Đội thứ hai 4X 3x First Team, 2x Second Team, 3x Third Team

All-Star: 7x: 8x

Giải vô địch: 0: 0

Những người bảo vệ điểm chơi gần như là một giống chó sắp chết nhưng nó sống ở Chris Paul. Phao -lô là một người trở lại thời điểm mà những người bảo vệ Point tìm cách tạo ra cho người khác trước và ghi bàn thứ hai. Anh ấy đã dẫn đầu giải đấu hỗ trợ bốn lần trong sự nghiệp của anh ấy cho đến nay nhưng khả năng ghi bàn của anh ấy không phải là một người được xem nhẹ vì anh ấy trung bình gần 19 điểm một trận đấu.

Paul là một hậu vệ xuất sắc, dẫn đầu giải đấu đánh cắp sáu lần và tích lũy 2.220, tốt cho lần thứ 7 trong lịch sử giải đấu.

37. George Mikan

Trung bình nghề nghiệp: 23,1 điểm, 13,4 rebound, 2,8 hỗ trợ: 18.9 points, 5.9 rebounds, 6.1 assists

Giải thưởng MVP: 1 1

All-NBA: 6x Đội đầu tiên 4x First Team, 2x Second Team

All-Star: 4x 7x

Giải vô địch: 5: 2

Là người đàn ông lớn đầu tiên của League League, George Mikan đã dẫn dắt đội bóng thành phố Minneapolis tới năm giải vô địch trong sáu mùa từ năm 1949 đến 1954. Không ai có thể ngăn chặn trung tâm 6 feet 10 vào làn đường và thống trị những người chơi nhỏ hơn.

Mikan thực sự đã thay đổi trò chơi khi giải đấu mở rộng làn đường từ sáu đến 12 feet vào năm 1951 để ngăn anh ta ghi bàn quá dễ dàng. Anh ấy đã cung cấp theo cách của mình đến 23,1 điểm và 13,4 rebound mỗi trận. Cú sút được cấp bằng sáng chế của anh ấy là tổ tiên của Kareem Abdul-Jabbar, nổi tiếng hơn Skyhook.

36. Willis Reed

Trung bình nghề nghiệp: 18,7 điểm, 12,9 rebound, 1,8 hỗ trợ: 21.0 points, 12.5 rebounds, 1.8 assists

Giải thưởng MVP: 0: 0

All-NBA: Đội thứ nhất 1x, Đội thứ hai 4X: 3x First Team, 3x Second Team

All-Star: 12x: 12x

Giải vô địch: 1: 1

Giải vô địch: 0

Những người bảo vệ điểm chơi gần như là một giống chó sắp chết nhưng nó sống ở Chris Paul. Phao -lô là một người trở lại thời điểm mà những người bảo vệ Point tìm cách tạo ra cho người khác trước và ghi bàn thứ hai. Anh ấy đã dẫn đầu giải đấu hỗ trợ bốn lần trong sự nghiệp của anh ấy cho đến nay nhưng khả năng ghi bàn của anh ấy không phải là một người được xem nhẹ vì anh ấy trung bình gần 19 điểm một trận đấu.

Paul là một hậu vệ xuất sắc, dẫn đầu giải đấu đánh cắp sáu lần và tích lũy 2.220, tốt cho lần thứ 7 trong lịch sử giải đấu.

37. George Mikan: 24.3 points, 4.6 rebounds, 6.5 assists

MVP: 2: 2

All-NBA: Đội thứ nhất 4X, Đội thứ hai 3x, Đội thứ ba 1x: 4x First Team, 3x Second Team, 1x Third Team

All-Star: 8x: 8x

Giải vô địch: 4: 4

MVP nhất trí duy nhất trong biên niên sử League, Stephen Curry được cho là game bắn súng vĩ đại nhất từng đi trên sàn gỗ cứng. Với người bảo vệ quan điểm 6 feet 3 xung quanh, không có phần nào của tòa án là khu vực an toàn cho các hậu vệ vì anh ta có thể thực hiện một cú sút từ hầu hết mọi khu vực của tòa án.

Các hồ sơ ba điểm của anh ta có thể sẽ tồn tại trong một thời gian dài, trừ khi người bạn đời của anh ta, Klay Thompson, làm lu mờ họ, đó là. Curry hiện đang sở hữu ba chức vô địch và hai MVP với Golden State Warriors.

31.Scottie PippenScottie Pippen

Trung bình nghề nghiệp: 16,1 điểm, 6,4 rebound, 5,2 hỗ trợ: 16.1 points, 6.4 rebounds, 5.2 assists

Giải thưởng MVP: 0: 0

All-NBA: Đội thứ nhất 3x, Đội thứ hai 2x, Đội thứ ba 2 lần 3x First Team, 2x Second Team, 2x Third Team

All-Star: 7x 7x

Giải vô địch: 6: 6

Không ai đóng vai trò bổ sung tốt hơn cho một ngôi sao lớn hơn Scottie Pippen. Anh ta lớn lên và nở rộ trong bóng tối Jordan, và là người chơi đa năng nhất trong trò chơi trong thời gian ở Chicago. Trong mùa giải 1993-94 khi Jordan lần đầu tiên nghỉ hưu, Pippen đã dẫn dắt Bulls đạt kỷ lục 55-25, đã giành giải thưởng MVP của All-Star Game và là ứng cử viên MVP mùa giải thường xuyên, đứng thứ ba trong cuộc bỏ phiếu sau Hakeem Olajuwon và San Antonio của Houston và San Antonio David Robinson.

Pippen là người tạo ra hành vi phạm tội, cho phép những người bảo vệ điểm Bulls là chuyên gia, cụ thể là các game bắn súng. Và mặc dù anh ta là một người chơi tấn công rất giỏi, thẻ gọi điện Pippen là phòng thủ của anh ta. Anh ta là một thành viên trong nhóm toàn diện 10 lần, thường bảo vệ người chơi giỏi nhất của đối thủ.

30. Patrick Ewing

Trung bình nghề nghiệp: 21,0 điểm, 9,8 rebound, 1,9 hỗ trợ: 21.0 points, 9.8 rebounds, 1.9 assists

Giải thưởng MVP: 0: 0

All-NBA: Đội thứ nhất 3x, Đội thứ hai 2x, Đội thứ ba 2 lần 1x First Team, 6x Second Team

All-Star: 7x: 11x

Giải vô địch: 6: 0

Không ai đóng vai trò bổ sung tốt hơn cho một ngôi sao lớn hơn Scottie Pippen. Anh ta lớn lên và nở rộ trong bóng tối Jordan, và là người chơi đa năng nhất trong trò chơi trong thời gian ở Chicago. Trong mùa giải 1993-94 khi Jordan lần đầu tiên nghỉ hưu, Pippen đã dẫn dắt Bulls đạt kỷ lục 55-25, đã giành giải thưởng MVP của All-Star Game và là ứng cử viên MVP mùa giải thường xuyên, đứng thứ ba trong cuộc bỏ phiếu sau Hakeem Olajuwon và San Antonio của Houston và San Antonio David Robinson.

Pippen là người tạo ra hành vi phạm tội, cho phép những người bảo vệ điểm Bulls là chuyên gia, cụ thể là các game bắn súng. Và mặc dù anh ta là một người chơi tấn công rất giỏi, thẻ gọi điện Pippen là phòng thủ của anh ta. Anh ta là một thành viên trong nhóm toàn diện 10 lần, thường bảo vệ người chơi giỏi nhất của đối thủ.

30. Patrick Ewing

Trung bình nghề nghiệp: 21,0 điểm, 9,8 rebound, 1,9 hỗ trợ: 24.3 points, 7.1 rebounds, 4.3 assists

All-NBA: Đội thứ nhất 1x, 6x Đội thứ hai: 1

All-Star: 11x 6x First Team, 4x Second Team

Giải vô địch: 0: 12x

Patrick Ewing là một trong 10 trung tâm tốt nhất trong lịch sử NBA. Sự nghiệp của Ewing, không nên được xác định bởi sự thiếu nhẫn vô địch của anh ấy và thực tế là đội Knicks của anh ấy đã thua nhiều lần trước Michael Jordan. Anh ấy là một chiến binh của trật tự cao nhất và khuôn mặt của nhượng quyền trong hơn một thập kỷ.

Mọi người nên nhớ rằng anh ấy đã mang nhượng quyền Knicks đến vòng playoffs trong 13 năm bao gồm cả trận chung kết sau nhiều năm tầm thường trước khi anh ấy được phác thảo vào năm 1985. Anh ấy là một All-Star 11 lần và là thành viên của một số đội All-NBA. 2

29. Kevin Durant

Trung bình nghề nghiệp: 24,3 điểm, 7,1 rebound, 4,3 hỗ trợ

Giải thưởng MVP: 1

All-NBA: Đội thứ nhất 6x, Đội thứ hai 4X: 12.6 points, 6.3 rebounds, 8.7 assists

Giải thưởng MVP: 0: 0

All-NBA: Đội thứ nhất 3x, Đội thứ hai 2x, Đội thứ ba 2 lần 5x First Team, 1x Second Team

All-Star: 7x: 10x

Giải vô địch: 6: 1

Không ai đóng vai trò bổ sung tốt hơn cho một ngôi sao lớn hơn Scottie Pippen. Anh ta lớn lên và nở rộ trong bóng tối Jordan, và là người chơi đa năng nhất trong trò chơi trong thời gian ở Chicago. Trong mùa giải 1993-94 khi Jordan lần đầu tiên nghỉ hưu, Pippen đã dẫn dắt Bulls đạt kỷ lục 55-25, đã giành giải thưởng MVP của All-Star Game và là ứng cử viên MVP mùa giải thường xuyên, đứng thứ ba trong cuộc bỏ phiếu sau Hakeem Olajuwon và San Antonio của Houston và San Antonio David Robinson.

Pippen là người tạo ra hành vi phạm tội, cho phép những người bảo vệ điểm Bulls là chuyên gia, cụ thể là các game bắn súng. Và mặc dù anh ta là một người chơi tấn công rất giỏi, thẻ gọi điện Pippen là phòng thủ của anh ta. Anh ta là một thành viên trong nhóm toàn diện 10 lần, thường bảo vệ người chơi giỏi nhất của đối thủ.

30. Patrick Ewing

Trung bình nghề nghiệp: 21,0 điểm, 9,8 rebound, 1,9 hỗ trợ

All-NBA: Đội thứ nhất 1x, 6x Đội thứ hai: 26.4 points, 16.2 rebounds, 3.0 assists

All-Star: 11x: 2

Giải vô địch: 0: 10x First Team, 1x Second Team

All-Star: 7x: 11x

Giải vô địch: 6: 1

Không ai đóng vai trò bổ sung tốt hơn cho một ngôi sao lớn hơn Scottie Pippen. Anh ta lớn lên và nở rộ trong bóng tối Jordan, và là người chơi đa năng nhất trong trò chơi trong thời gian ở Chicago. Trong mùa giải 1993-94 khi Jordan lần đầu tiên nghỉ hưu, Pippen đã dẫn dắt Bulls đạt kỷ lục 55-25, đã giành giải thưởng MVP của All-Star Game và là ứng cử viên MVP mùa giải thường xuyên, đứng thứ ba trong cuộc bỏ phiếu sau Hakeem Olajuwon và San Antonio của Houston và San Antonio David Robinson.

Pippen là người tạo ra hành vi phạm tội, cho phép những người bảo vệ điểm Bulls là chuyên gia, cụ thể là các game bắn súng. Và mặc dù anh ta là một người chơi tấn công rất giỏi, thẻ gọi điện Pippen là phòng thủ của anh ta. Anh ta là một thành viên trong nhóm toàn diện 10 lần, thường bảo vệ người chơi giỏi nhất của đối thủ.

30. Patrick EwingBob Cousy

Trung bình nghề nghiệp: 21,0 điểm, 9,8 rebound, 1,9 hỗ trợ: 18.4 points, 5.2 rebounds, 7.5 assists

All-NBA: Đội thứ nhất 1x, 6x Đội thứ hai: 1

All-Star: 11x: 10x First Team, 2x Second Team

Giải vô địch: 0: 13x

Giải vô địch: 6: 6

Không ai đóng vai trò bổ sung tốt hơn cho một ngôi sao lớn hơn Scottie Pippen. Anh ta lớn lên và nở rộ trong bóng tối Jordan, và là người chơi đa năng nhất trong trò chơi trong thời gian ở Chicago. Trong mùa giải 1993-94 khi Jordan lần đầu tiên nghỉ hưu, Pippen đã dẫn dắt Bulls đạt kỷ lục 55-25, đã giành giải thưởng MVP của All-Star Game và là ứng cử viên MVP mùa giải thường xuyên, đứng thứ ba trong cuộc bỏ phiếu sau Hakeem Olajuwon và San Antonio của Houston và San Antonio David Robinson.

Anh đã giành được MVP 1957 và giành được sáu chức vô địch với Russell. Là một minh chứng cho sự vĩ đại và nổi tiếng của anh ấy, Cooz đã được ghi tên vào 13 trò chơi All-Star NBA khi chơi 13 mùa đầy đủ cho Celtics.

25. Isiah Thomas

Trung bình nghề nghiệp: 19,2 điểm, 3,6 rebound, 9,3 hỗ trợ: 19.2 points, 3.6 rebounds, 9.3 assists

Giải thưởng MVP: 0: 0

All-NBA: Đội thứ nhất 3x, Đội thứ hai 2x: 3x First Team, 2x Second Team

All-Star: 12x: 12x

Giải vô địch: 2: 2

Detroit Pistons Bad Boy bắt đầu và kết thúc với anh chàng nhỏ nhất trong đội hình của họ là Isiah Thomas. Bất kể kích thước của anh ấy, Thomas là trái tim và linh hồn của Pistons thô bạo và cứng rắn, người đã dồn nén bất cứ ai trên đường giành chức vô địch back-to-back từ 1988-89 đến mùa giải 1989-90.

Người ta sẽ khó có thể tìm thấy một người chơi khác với sự kết hợp giữa tay cầm, khả năng ghi bàn và vượt qua sự nhạy bén cùng với sự phong phú của anh ta. Anh ấy nên ở trong đội mơ ban đầu vào năm 1992 nhưng không được bao gồm do xung đột với một số thành viên của đội, đặc biệt là Jordan và Karl Malone.

24. John Stockton

Trung bình nghề nghiệp: 13,1 điểm, 2,7 rebound, 10,5 hỗ trợ: 13.1 points, 2.7 rebounds, 10.5 assists

Giải thưởng MVP: 0: 0

All-NBA: Đội thứ nhất 3x, Đội thứ hai 2x: 2x First Team, 6x Second Team, 3x Third Team

All-Star: 12x: 10x

Giải vô địch: 2: 0

Detroit Pistons Bad Boy bắt đầu và kết thúc với anh chàng nhỏ nhất trong đội hình của họ là Isiah Thomas. Bất kể kích thước của anh ấy, Thomas là trái tim và linh hồn của Pistons thô bạo và cứng rắn, người đã dồn nén bất cứ ai trên đường giành chức vô địch back-to-back từ 1988-89 đến mùa giải 1989-90.

Người ta sẽ khó có thể tìm thấy một người chơi khác với sự kết hợp giữa tay cầm, khả năng ghi bàn và vượt qua sự nhạy bén cùng với sự phong phú của anh ta. Anh ấy nên ở trong đội mơ ban đầu vào năm 1992 nhưng không được bao gồm do xung đột với một số thành viên của đội, đặc biệt là Jordan và Karl Malone.

24. John Stockton

Trung bình nghề nghiệp: 13,1 điểm, 2,7 rebound, 10,5 hỗ trợ 22.0 points, 4.7 rebounds, 5.4 assists

Giải thưởng MVP: 0: 0

All-NBA: Đội thứ nhất 3x, Đội thứ hai 2x 2x First Team, 3x Second Team, 3x Third Team

All-Star: 12x 13x

Giải vô địch: 2 3

Detroit Pistons Bad Boy bắt đầu và kết thúc với anh chàng nhỏ nhất trong đội hình của họ là Isiah Thomas. Bất kể kích thước của anh ấy, Thomas là trái tim và linh hồn của Pistons thô bạo và cứng rắn, người đã dồn nén bất cứ ai trên đường giành chức vô địch back-to-back từ 1988-89 đến mùa giải 1989-90.

Người ta sẽ khó có thể tìm thấy một người chơi khác với sự kết hợp giữa tay cầm, khả năng ghi bàn và vượt qua sự nhạy bén cùng với sự phong phú của anh ta. Anh ấy nên ở trong đội mơ ban đầu vào năm 1992 nhưng không được bao gồm do xung đột với một số thành viên của đội, đặc biệt là Jordan và Karl Malone.

24. John Stockton

Trung bình nghề nghiệp: 13,1 điểm, 2,7 rebound, 10,5 hỗ trợ 20.7 points, 7.5 rebounds, 2.4 assists

All-NBA: Đội thứ nhất 2x, Đội thứ hai 6x, Đội thứ ba 3X: 1

All-Star: 10 lần 4x First Team, 5x Second Team, 3x Third Team

Giải vô địch: 0 14x

Người qua đường vĩ đại nhất trong lịch sử NBA bằng một dặm, John Stockton có thể là một cầu thủ ghi bàn 20 điểm nhưng đã chọn phân phối bóng cho các đồng đội của mình, cho dù đó là Karl Malone hay bất kỳ diễn viên hỗ trợ nào của họ. 1

15.806 hỗ trợ sự nghiệp của anh ấy cao hơn 3.715 so với tổng số tiền thứ hai của Jason Kidd. Stockton cũng là người lãnh đạo sự nghiệp của NBA, về Steals (3.265) và là một trong những cầu thủ bền bỉ nhất trong trò chơi chơi tất cả 82 trận đấu của mùa 16 lần trong sự nghiệp 19 năm lừng lẫy của anh ấy.

23. Dwyane Wade

Trung bình nghề nghiệp: 22,0 điểm, 4,7 rebound, 5,4 hỗ trợ

All-NBA: Đội thứ nhất 2x, Đội thứ hai 3x, Đội thứ ba 3X: 22.0 points, 6.7 rebounds, 3.9 assists

All-Star: 13x: 1

Giải vô địch: 3 5x First Team, 2x Second Team

Ngay cả khi là một người bảo vệ bắn súng không được đánh giá thấp, Dwyane Wade đã chơi lớn, đặc biệt là trong giai đoạn lớn nhất. Chỉ trong mùa thứ ba của mình, Wade đã dẫn dắt Heat đến danh hiệu năm 2006 so với Dallas Mavericks sau khi hạ 0-2 trong trận chung kết. Anh ấy không thể ngăn cản được và cho mọi người thấy rằng anh ấy là siêu sao bay cao tiếp theo tiếp theo. 11x

Người qua đường vĩ đại nhất trong lịch sử NBA bằng một dặm, John Stockton có thể là một cầu thủ ghi bàn 20 điểm nhưng đã chọn phân phối bóng cho các đồng đội của mình, cho dù đó là Karl Malone hay bất kỳ diễn viên hỗ trợ nào của họ. 1

15.806 hỗ trợ sự nghiệp của anh ấy cao hơn 3.715 so với tổng số tiền thứ hai của Jason Kidd. Stockton cũng là người lãnh đạo sự nghiệp của NBA, về Steals (3.265) và là một trong những cầu thủ bền bỉ nhất trong trò chơi chơi tất cả 82 trận đấu của mùa 16 lần trong sự nghiệp 19 năm lừng lẫy của anh ấy.

23. Dwyane Wade

Trung bình nghề nghiệp: 22,0 điểm, 4,7 rebound, 5,4 hỗ trợ

All-NBA: Đội thứ nhất 2x, Đội thứ hai 3x, Đội thứ ba 3X

All-Star: 13x 17.8 points, 10.0 rebounds, 3.7 assists

All-Star: 13x: 1

Giải vô địch: 3: 4x First Team, 3x Second Team, 2x Third Team

Ngay cả khi là một người bảo vệ bắn súng không được đánh giá thấp, Dwyane Wade đã chơi lớn, đặc biệt là trong giai đoạn lớn nhất. Chỉ trong mùa thứ ba của mình, Wade đã dẫn dắt Heat đến danh hiệu năm 2006 so với Dallas Mavericks sau khi hạ 0-2 trong trận chung kết. Anh ấy không thể ngăn cản được và cho mọi người thấy rằng anh ấy là siêu sao bay cao tiếp theo tiếp theo. 15x

Người qua đường vĩ đại nhất trong lịch sử NBA bằng một dặm, John Stockton có thể là một cầu thủ ghi bàn 20 điểm nhưng đã chọn phân phối bóng cho các đồng đội của mình, cho dù đó là Karl Malone hay bất kỳ diễn viên hỗ trợ nào của họ. 1

15.806 hỗ trợ sự nghiệp của anh ấy cao hơn 3.715 so với tổng số tiền thứ hai của Jason Kidd. Stockton cũng là người lãnh đạo sự nghiệp của NBA, về Steals (3.265) và là một trong những cầu thủ bền bỉ nhất trong trò chơi chơi tất cả 82 trận đấu của mùa 16 lần trong sự nghiệp 19 năm lừng lẫy của anh ấy.

23. Dwyane Wade

Trung bình nghề nghiệp: 22,0 điểm, 4,7 rebound, 5,4 hỗ trợ

All-NBA: Đội thứ nhất 2x, Đội thứ hai 3x, Đội thứ ba 3X 20.8 points, 6.3 rebounds, 4.8 assists

Giải thưởng MVP: 0: 0

All-Star: 13x 4x First Team, 7x Second Team

All-Star: 12x: 13x

Giải vô địch: 2: 8

Một số người có thể thấy khó tin nhưng có một số ít người chơi có nhiều chức vô địch hơn Jordan, người có sáu người trong sự nghiệp xuất sắc của mình. John Tiết Hondo xông Havlicek là một trong số đó.

Sau khi Bill Russell nghỉ hưu, Havlicek đã mang Celtics đến một vài tựa game và giành được vị trí của mình trong số các trò chơi tinh hoa. Không ai ghi được nhiều điểm hơn trong bộ đồng phục Celtics hơn Havlicek và bao gồm cả Larry Bird.

18. Elgin Baylor

Trung bình nghề nghiệp: 27,4 điểm, 13,5 rebound, 4,3 hỗ trợ: 27.4 points, 13.5 rebounds, 4.3 assists

Giải thưởng MVP: 0: 0

All-NBA: Đội đầu tiên 10 lần: 10x First Team

All-Star: 11x: 11x

Giải vô địch: 0: 0

Tổ chức của ngày hôm nay, những người bay cao, Elgin Baylor đã khiến người hâm mộ kinh ngạc với những người hâm mộ hàng đêm của anh ấy đến The Hoop. Anh ấy cũng là một trong những điểm số nhỏ nhất trong trò chơi và là người phục hồi tốt nhất của lô với 13,5 rebound mỗi trò chơi.

Mặc dù đã nghỉ hưu chín trận trong mùa giải 1971-72 và do đó bỏ lỡ việc giành một danh hiệu, Lakers phù hợp đã cho anh ấy một chiếc nhẫn vô địch kể từ khi anh ấy chơi trong chín trận đấu.

17. David Robinson

Trung bình nghề nghiệp: 21,1 điểm, 10,6 rebound, 2,5 hỗ trợ: 21.1 points, 10.6 rebounds, 2.5 assists

Giải thưởng MVP: 1: 1

All-NBA: Đội thứ nhất 4X, Đội thứ hai 2x, Đội thứ ba 4X 4x First Team, 2x Second Team, 4x Third Team

All-Star: 10 lần: 10x

Giải vô địch: 2: 2

Trong thời kỳ hoàng kim không chính thức của Trung tâm Trung tâm vào những năm 90, David Robinson là một trong những người giỏi nhất thời đó. Anh ấy đã trở thành nền tảng của ngày hôm nay, San San Antonio Spurs với hành động đẳng cấp của mình và chơi không ích kỷ trên sân.

Anh ta chỉ giành được một giải thưởng MVP mặc dù có ít nhất hai trường hợp khác khi anh ta có thể giành được nó. Khi Tim Duncan đến vào năm 1997, Robinson duyên dáng để cho đối tác phía trước của mình có được tất cả ánh đèn sân khấu trong khi anh ta tập trung vào phòng thủ và hồi phục. Nó đã dẫn đến việc Spurs giành chức vô địch vào năm 1999 và 2003 sau đó ông đã nghỉ hưu như một trong những ông lớn lớn nhất từ ​​trước đến nay.

16. Charles Barkley

Trung bình nghề nghiệp: 22,1 điểm, 11,7 rebound, 3,9 hỗ trợ: 22.1 points, 11.7 rebounds, 3.9 assists

Giải thưởng MVP: 1: 1

All-NBA: Đội thứ nhất 4X, Đội thứ hai 2x, Đội thứ ba 4X 5x First Team, 5x Second Team, 1x Third Team

All-Star: 11x 11x

Giải vô địch: 0: 0

Tổ chức của ngày hôm nay, những người bay cao, Elgin Baylor đã khiến người hâm mộ kinh ngạc với những người hâm mộ hàng đêm của anh ấy đến The Hoop. Anh ấy cũng là một trong những điểm số nhỏ nhất trong trò chơi và là người phục hồi tốt nhất của lô với 13,5 rebound mỗi trò chơi.

Mặc dù đã nghỉ hưu chín trận trong mùa giải 1971-72 và do đó bỏ lỡ việc giành một danh hiệu, Lakers phù hợp đã cho anh ấy một chiếc nhẫn vô địch kể từ khi anh ấy chơi trong chín trận đấu.

17. David Robinson

Trung bình nghề nghiệp: 21,1 điểm, 10,6 rebound, 2,5 hỗ trợ: 25.0 points, 10.1 rebounds, 3.6 assists

Giải thưởng MVP: 1: 2

All-NBA: Đội thứ nhất 4X, Đội thứ hai 2x, Đội thứ ba 4X 11x First Team, 2x Second Team, 1x Third Team

All-Star: 10 lần 14x

Giải vô địch: 0: 0

Tổ chức của ngày hôm nay, những người bay cao, Elgin Baylor đã khiến người hâm mộ kinh ngạc với những người hâm mộ hàng đêm của anh ấy đến The Hoop. Anh ấy cũng là một trong những điểm số nhỏ nhất trong trò chơi và là người phục hồi tốt nhất của lô với 13,5 rebound mỗi trò chơi.

Mặc dù đã nghỉ hưu chín trận trong mùa giải 1971-72 và do đó bỏ lỡ việc giành một danh hiệu, Lakers phù hợp đã cho anh ấy một chiếc nhẫn vô địch kể từ khi anh ấy chơi trong chín trận đấu.

17. David Robinson

Trung bình nghề nghiệp: 21,1 điểm, 10,6 rebound, 2,5 hỗ trợ: 20.6 points, 12.2 rebounds, 1.4 assists

Giải thưởng MVP: 1: 3

All-NBA: Đội thứ nhất 4X, Đội thứ hai 2x, Đội thứ ba 4X 4x First Team, 4x Second Team

All-Star: 10 lần 12x

Giải vô địch: 2: 1

Trong thời kỳ hoàng kim không chính thức của Trung tâm Trung tâm vào những năm 90, David Robinson là một trong những người giỏi nhất thời đó. Anh ấy đã trở thành nền tảng của ngày hôm nay, San San Antonio Spurs với hành động đẳng cấp của mình và chơi không ích kỷ trên sân.

Anh ta chỉ giành được một giải thưởng MVP mặc dù có ít nhất hai trường hợp khác khi anh ta có thể giành được nó. Khi Tim Duncan đến vào năm 1997, Robinson duyên dáng để cho đối tác phía trước của mình có được tất cả ánh đèn sân khấu trong khi anh ta tập trung vào phòng thủ và hồi phục. Nó đã dẫn đến việc Spurs giành chức vô địch vào năm 1999 và 2003 sau đó ông đã nghỉ hưu như một trong những ông lớn lớn nhất từ ​​trước đến nay.

16. Charles Barkley

Trung bình nghề nghiệp: 22,1 điểm, 11,7 rebound, 3,9 hỗ trợ 27.0 points, 5.8 rebounds, 6.7 assists

Giải thưởng MVP: 0: 0

All-NBA: Đội thứ nhất 5X, Đội thứ hai 5X, Đội thứ ba 1x 10x First Team, 2x Second Team

All-Star: 10 lần: 14x

Giải vô địch: 2: 1

Trong thời kỳ hoàng kim không chính thức của Trung tâm Trung tâm vào những năm 90, David Robinson là một trong những người giỏi nhất thời đó. Anh ấy đã trở thành nền tảng của ngày hôm nay, San San Antonio Spurs với hành động đẳng cấp của mình và chơi không ích kỷ trên sân.

Anh ta chỉ giành được một giải thưởng MVP mặc dù có ít nhất hai trường hợp khác khi anh ta có thể giành được nó. Khi Tim Duncan đến vào năm 1997, Robinson duyên dáng để cho đối tác phía trước của mình có được tất cả ánh đèn sân khấu trong khi anh ta tập trung vào phòng thủ và hồi phục. Nó đã dẫn đến việc Spurs giành chức vô địch vào năm 1999 và 2003 sau đó ông đã nghỉ hưu như một trong những ông lớn lớn nhất từ ​​trước đến nay.

16. Charles Barkley

Trung bình nghề nghiệp: 22,1 điểm, 11,7 rebound, 3,9 hỗ trợ 21.8 points, 11.1 rebounds, 2.5 assists

Giải thưởng MVP: 1: 1

All-NBA: Đội thứ nhất 4X, Đội thứ hai 2x, Đội thứ ba 4X: 6x First Team, 3x Second Team, 3x Third Team

All-Star: 12x 12x

Giải vô địch: 2: 2

Có lẽ là người đàn ông lớn chất lỏng nhất từ ​​trước đến nay, Hakeem Olajuwon là một người đàn ông của hàng ngàn động tác trong bài viết thấp. Dream Shake giống như múa ba lê trong vẻ đẹp và ân sủng của nó, khiến các đối thủ gãi đầu trong sự kinh ngạc và bối rối.

Mặc dù Olajuwon đã giành được hai chức vô địch, nhưng cách anh ấy tháo dỡ các trung tâm hàng đầu như David Robinson, Patrick Ewing và Shaquille O hèNeal trên đường đến những danh hiệu đó đã đẩy anh ấy lên đỉnh của những người đàn ông lớn ưu tú trong thời đại của anh ấy.

11. Oscar Robertson

Trung bình nghề nghiệp: 25,7 điểm, 7,5 rebound, 9,5 hỗ trợ 25.7 points, 7.5 rebounds, 9.5 assists

Giải thưởng MVP: 1: 1

All-NBA: Đội thứ nhất 9x, Đội thứ hai 2x: 9x First Team, 2x Second Team

All-Star: 12x: 12x

Giải vô địch: 1: 1

Một trong những quyết định khó khăn nhất của việc xếp hạng 50 người chơi hàng đầu là khởi động Oscar Robertson trong top 10. Nhưng tất cả đã sôi sục với một sự lựa chọn giữa Kobe Bryant và Robertson nhưng người bảo vệ Laker đã giành được một mái tóc chủ yếu vì thành công sau khi phản đối. Tôi có thể buộc hai người chơi ở vị trí thứ 10 nhưng tôi thích dứt khoát với thứ hạng của mình.

Trong nhiều năm, không ai biết gấp ba lần là gì cho đến khi Robertson làm điều đó và anh ta đã hoàn thành kỳ tích mà không nghĩ đến việc muốn có được một đêm. Trung bình ba năm của anh ấy là một trong những số liệu thống kê điên rồ nhất trong lịch sử giải đấu. Robertson là tiền thân của LeBron James nhưng không ai chơi một trò chơi toàn diện hơn trong lịch sử so với Big O.

Bây giờ chúng tôi chuyển đến 10 người chơi hàng đầu mọi thời đại của NBA.

10. Kobe Bryant

Trung bình nghề nghiệp: 25,0 điểm, 5,2 rebound, 4,7 hỗ trợ: 25.0 points, 5.2 rebounds, 4.7 assists

Giải thưởng MVP: 1s: 1

All-NBA: Đội thứ nhất 9x, Đội thứ hai 2x: 11x First Team, 2x Second Team, 2x Third Team

Giải vô địch: 1: 18x

Một trong những quyết định khó khăn nhất của việc xếp hạng 50 người chơi hàng đầu là khởi động Oscar Robertson trong top 10. Nhưng tất cả đã sôi sục với một sự lựa chọn giữa Kobe Bryant và Robertson nhưng người bảo vệ Laker đã giành được một mái tóc chủ yếu vì thành công sau khi phản đối. Tôi có thể buộc hai người chơi ở vị trí thứ 10 nhưng tôi thích dứt khoát với thứ hạng của mình.: 5

Trong nhiều năm, không ai biết gấp ba lần là gì cho đến khi Robertson làm điều đó và anh ta đã hoàn thành kỳ tích mà không nghĩ đến việc muốn có được một đêm. Trung bình ba năm của anh ấy là một trong những số liệu thống kê điên rồ nhất trong lịch sử giải đấu. Robertson là tiền thân của LeBron James nhưng không ai chơi một trò chơi toàn diện hơn trong lịch sử so với Big O.

Bây giờ chúng tôi chuyển đến 10 người chơi hàng đầu mọi thời đại của NBA.

10. Kobe Bryant

Trung bình nghề nghiệp: 25,0 điểm, 5,2 rebound, 4,7 hỗ trợ

All-NBA: Đội thứ nhất 11x, Đội thứ hai 2x, Đội thứ ba 2 lần: 19.0 points, 10.8 rebounds, 3.0 assists

All-Star: 18x: 2

Giải vô địch: 5: 10x First Team, 3x Second Team, 2x Third Team

Một số người nói rằng anh ấy là người làm việc vĩ đại nhất mọi thời đại và sau khi chơi cực kỳ tuyệt vời trong 20 năm, Kobe Bryant xứng đáng ít nhất là một phần của cuộc tranh luận. Anh tham gia giải đấu khi còn là một thiếu niên, người hầu như không thể kiềm chế được sự phấn khích của mình khi được chơi Hoops như một sự nghiệp. Bóng rổ là lối thoát hoàn hảo cho bản tính cạnh tranh của chàng trai trẻ, và anh ấy sẽ mãi mãi bị cộng đồng NBA và thế giới của chúng ta bỏ qua sau cái chết bi thảm của anh ấy. 15x

Một trong những quyết định khó khăn nhất của việc xếp hạng 50 người chơi hàng đầu là khởi động Oscar Robertson trong top 10. Nhưng tất cả đã sôi sục với một sự lựa chọn giữa Kobe Bryant và Robertson nhưng người bảo vệ Laker đã giành được một mái tóc chủ yếu vì thành công sau khi phản đối. Tôi có thể buộc hai người chơi ở vị trí thứ 10 nhưng tôi thích dứt khoát với thứ hạng của mình.: 5

Trong nhiều năm, không ai biết gấp ba lần là gì cho đến khi Robertson làm điều đó và anh ta đã hoàn thành kỳ tích mà không nghĩ đến việc muốn có được một đêm. Trung bình ba năm của anh ấy là một trong những số liệu thống kê điên rồ nhất trong lịch sử giải đấu. Robertson là tiền thân của LeBron James nhưng không ai chơi một trò chơi toàn diện hơn trong lịch sử so với Big O.

Bây giờ chúng tôi chuyển đến 10 người chơi hàng đầu mọi thời đại của NBA.

10. Kobe Bryant

Trung bình nghề nghiệp: 25,0 điểm, 5,2 rebound, 4,7 hỗ trợ

All-NBA: Đội thứ nhất 11x, Đội thứ hai 2x, Đội thứ ba 2 lần: 23.7 points, 10.9 rebounds, 2.5 assists

Giải thưởng MVP: 1: 1

All-NBA: Đội thứ nhất 9x, Đội thứ hai 2x: 8x First Team, 2x Second Team, 4x Third Team

Một số người nói rằng anh ấy là người làm việc vĩ đại nhất mọi thời đại và sau khi chơi cực kỳ tuyệt vời trong 20 năm, Kobe Bryant xứng đáng ít nhất là một phần của cuộc tranh luận. Anh tham gia giải đấu khi còn là một thiếu niên, người hầu như không thể kiềm chế được sự phấn khích của mình khi được chơi Hoops như một sự nghiệp. Bóng rổ là lối thoát hoàn hảo cho bản tính cạnh tranh của chàng trai trẻ, và anh ấy sẽ mãi mãi bị cộng đồng NBA và thế giới của chúng ta bỏ qua sau cái chết bi thảm của anh ấy.: 15x

Bryant đã hoàn thành những gì hầu hết người chơi NBA chỉ có thể mơ ước. Anh ấy đã giành chiến thắng trong cuộc thi Slam Dunk với tư cách là một tân binh và là thành viên của đội All-Rookie. Chỉ trong mùa thứ hai của mình, Bryant trở thành All-Star, lần đầu tiên trong số 18 lựa chọn như vậy. Chẳng mấy chốc, anh sẽ giành được ba danh hiệu liên tiếp cùng với siêu sao Shaquille O hèNeal. Khi hai cách chia tay, Bryant đã đợi thêm một vài mùa trước khi anh giành được hai chức vô địch nữa, nhiều hơn một người so với đồng đội cũ của anh.: 4

Một trong những cầu thủ ghi bàn ưu tú trong lịch sử NBA, Black Mamba đứng thứ ba về điểm số trong sự nghiệp mọi thời đại với 33.643 điểm và cầu thủ ghi bàn hàng đầu mọi thời đại của Lakers. Anh đã giành được giải thưởng MVP duy nhất của mình vào năm 2008 và là trận chung kết MVP hai lần vào năm 2009 và 2010. Bryant đã giành được kỷ lục MVP toàn sao bốn lần (gắn liền với Bob Petit) với một trong số họ là đồng chiến thắng với O hèNeal.

O hèNeal đã giành được giải thưởng Rookie of the Year năm 1992 và anh ấy không bao giờ nhìn lại kể từ đó. Chỉ sau bốn năm ở giải đấu, O hèNeal đã mang nhượng quyền thương mại Orlando Magic, một đội mở rộng vào năm 1989, đến Chung kết NBA năm 1995. Năm 1996, O hèNeal rời khỏi phép thuật để tham gia Lakers, nơi cuối cùng anh sẽ hợp tác với huấn luyện viên Phil Jackson và siêu sao Bryant để tạo thành một trong những bộ ba vĩ đại nhất trong lịch sử giải đấu. Họ đã sớm giành được ba danh hiệu liên tiếp từ năm 2000 đến 2002. O hèNeal đã thay đổi các đội một lần nữa vào năm 2004, lần này với Heat, người có siêu sao sắp tới Wade trong đội hình của mình. Hai người đã hợp tác để trao nhượng quyền chức vô địch đầu tiên vào năm 2006 khi anh giành được chức vô địch thứ tư sau bảy năm.

O hèNeal là một trong ba cầu thủ duy nhất giành được MVP mùa giải thông thường, trò chơi All-Star MVP và giải thưởng MVP Finals trong cùng một mùa giải (1999-2000). Động cơ diesel dẫn đầu giải đấu trong việc ghi bàn hai lần (1994-95, 1999-2000) và hiện đang đứng thứ tám trong việc ghi bàn mọi thời đại.

7. Larry Bird

Trung bình nghề nghiệp: 24,3 điểm, 10,0 rebound, 6,3 hỗ trợ: 24.3 points, 10.0 rebounds, 6.3 assists

Giải thưởng MVP: 3: 3

All-NBA: Đội thứ nhất 9x, Đội thứ hai 1x 9x First Team, 1x Second Team

All-Star: 12x 12x

Giải vô địch: 3: 3

Nếu bạn muốn chỉ cho một đứa trẻ cách chơi bóng rổ, bạn sẽ cho anh ấy thấy Larry Bird. Nhìn vào 6 feet 9 về phía trước, bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng anh ấy có thể chơi ở NBA, nhưng, cậu bé oh cậu bé có thể chơi! Truyền thuyết Celtics là một trong những người chơi được tôn kính nhất cho đến ngày nay vì trí thông minh, khả năng cạnh tranh và khả năng xung quanh để làm bất cứ điều gì trên sân. Và điều đó từ một người đàn ông da trắng có thể chạy và có thể nhảy. Bird áp đảo bạn với sự tự mãn, thông minh, sự tự tin tối cao và khả năng thoát khỏi những cú đánh của anh ấy một cách đều đặn.

Số 33 đã giành được ba giải thưởng MVP liên tiếp, người chơi duy nhất trong lịch sử giải đấu để hoàn thành kỳ tích. Ông đã hồi sinh những người Celt đang gặp khó khăn trong thập niên 80 và mang lại những ngày vinh quang của thập niên 60 khi Boston cai trị NBA. Trong những ngày chơi, anh ấy đã thêm ba biểu ngữ vô địch vào bè của Vườn Boston cũ và mang đến những người hâm mộ từ NCAA đến NBA cùng với Magic Johnson, đối thủ chính của anh ấy và bây giờ là bạn thân.

Nhiều người đã nói rằng sẽ không bao giờ có một Michael Jordan hay Magic Johnson khác, v.v. Nhưng, thành thật mà nói, chúng tôi đã thấy các phiên bản của hai cầu thủ tuyệt vời này ở Kobe Bryant và Ben Simmons, tương ứng. Sự thật là, Bird hoàn toàn có thể là người chơi duy nhất mà bạn có thể tự tin nói, sẽ không bao giờ có một người khác vì thực sự sẽ không bao giờ có một Bird Bird khác.

6. Magic Johnson

Trung bình nghề nghiệp: 19,5 điểm, 7,2 rebound, 11,2 hỗ trợ: 19.5 points, 7.2 rebounds, 11.2 assists

Giải thưởng MVP: 3: 3

All-NBA: Đội thứ nhất 9x, Đội thứ hai 1x: 9x First Team, 1x Second Team

All-Star: 12x: 12x

Giải vô địch: 3: 5

Nếu bạn muốn chỉ cho một đứa trẻ cách chơi bóng rổ, bạn sẽ cho anh ấy thấy Larry Bird. Nhìn vào 6 feet 9 về phía trước, bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng anh ấy có thể chơi ở NBA, nhưng, cậu bé oh cậu bé có thể chơi! Truyền thuyết Celtics là một trong những người chơi được tôn kính nhất cho đến ngày nay vì trí thông minh, khả năng cạnh tranh và khả năng xung quanh để làm bất cứ điều gì trên sân. Và điều đó từ một người đàn ông da trắng có thể chạy và có thể nhảy. Bird áp đảo bạn với sự tự mãn, thông minh, sự tự tin tối cao và khả năng thoát khỏi những cú đánh của anh ấy một cách đều đặn.

Số 33 đã giành được ba giải thưởng MVP liên tiếp, người chơi duy nhất trong lịch sử giải đấu để hoàn thành kỳ tích. Ông đã hồi sinh những người Celt đang gặp khó khăn trong thập niên 80 và mang lại những ngày vinh quang của thập niên 60 khi Boston cai trị NBA. Trong những ngày chơi, anh ấy đã thêm ba biểu ngữ vô địch vào bè của Vườn Boston cũ và mang đến những người hâm mộ từ NCAA đến NBA cùng với Magic Johnson, đối thủ chính của anh ấy và bây giờ là bạn thân.

Nhiều người đã nói rằng sẽ không bao giờ có một Michael Jordan hay Magic Johnson khác, v.v. Nhưng, thành thật mà nói, chúng tôi đã thấy các phiên bản của hai cầu thủ tuyệt vời này ở Kobe Bryant và Ben Simmons, tương ứng. Sự thật là, Bird hoàn toàn có thể là người chơi duy nhất mà bạn có thể tự tin nói, sẽ không bao giờ có một người khác vì thực sự sẽ không bao giờ có một Bird Bird khác.

6. Magic Johnson

Trung bình nghề nghiệp: 19,5 điểm, 7,2 rebound, 11,2 hỗ trợ

Giải vô địch: 5: 15.1 points, 22.5 rebounds, 4.3 assists

Lakers sẽ không có thời gian chiếu vào những năm 1980 mà không có Earvin Hồi Magic Magic Johnson. Magic là hoàn hảo cho L.A. và Hollywood với nụ cười thương hiệu và niềm đam mê của mình cho trò chơi. Chung kết MVP của anh ấy với tư cách là một tân binh có lẽ là thành tựu lớn nhất của anh ấy sau khi anh ấy thay thế Kareem Abdul-Jabbar bị thương trong Game 6. Anh ấy bắt đầu trò chơi ở trung tâm và chơi tất cả năm vị trí vào thời điểm trò chơi kết thúc, ghi lại 42 điểm, 15 rebound và bảy hỗ trợ.: 5

Trận chiến gần một năm của anh với Bird for the Championship đã đưa giải đấu lên tầm cao của sự nổi tiếng mà nó chưa từng biết trước đây. Năm chức vô địch của anh ấy đã củng cố anh ấy là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất để chơi trò chơi. 3x First Team, 8x Second Team

All-Star: 12x: 12x

Giải vô địch: 3 11

Nếu bạn muốn chỉ cho một đứa trẻ cách chơi bóng rổ, bạn sẽ cho anh ấy thấy Larry Bird. Nhìn vào 6 feet 9 về phía trước, bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng anh ấy có thể chơi ở NBA, nhưng, cậu bé oh cậu bé có thể chơi! Truyền thuyết Celtics là một trong những người chơi được tôn kính nhất cho đến ngày nay vì trí thông minh, khả năng cạnh tranh và khả năng xung quanh để làm bất cứ điều gì trên sân. Và điều đó từ một người đàn ông da trắng có thể chạy và có thể nhảy. Bird áp đảo bạn với sự tự mãn, thông minh, sự tự tin tối cao và khả năng thoát khỏi những cú đánh của anh ấy một cách đều đặn.

Số 33 đã giành được ba giải thưởng MVP liên tiếp, người chơi duy nhất trong lịch sử giải đấu để hoàn thành kỳ tích. Ông đã hồi sinh những người Celt đang gặp khó khăn trong thập niên 80 và mang lại những ngày vinh quang của thập niên 60 khi Boston cai trị NBA. Trong những ngày chơi, anh ấy đã thêm ba biểu ngữ vô địch vào bè của Vườn Boston cũ và mang đến những người hâm mộ từ NCAA đến NBA cùng với Magic Johnson, đối thủ chính của anh ấy và bây giờ là bạn thân.

Có những người coi Russell là người chơi vĩ đại nhất trong trò chơi vì 11 danh hiệu chưa từng có của anh ấy. Bất kể ai đang ở trên sàn với anh ta, Boston đã tìm ra cách để giành chiến thắng, bất kể. Khi các trận playoff đến, đồng đội của anh ấy biết rằng họ có thể giành được bất kỳ trận đấu hay loạt phim nào vì sự hiện diện đơn thuần của anh ấy.

Celtics đã giành được tám danh hiệu liên tiếp dưới sự lãnh đạo của Russell, vẫn là chuỗi vô địch dài nhất hiện tại trong biên niên sử giải đấu. Anh ta không chỉ dẫn dắt bằng ví dụ mà còn bằng lời nói của anh ta. Trong ba mùa (1966-67, 1967-68 và 1968-69), anh là đội bóng chơi huấn luyện viên, hướng dẫn đội bóng đến giải vô địch trong hai năm qua.

Anh ấy có phải là người vĩ đại nhất không? Nếu chiến thắng là cơ sở, thì Russell sẽ chiến thắng cuộc tranh luận đó.

4. Kareem Abdul-Jabbar

Trung bình nghề nghiệp: 24,6 điểm, 11,2 rebound, 3,6 hỗ trợ: 24.6 points, 11.2 rebounds, 3.6 assists

Giải thưởng MVP: 6: 6

All-NBA: Đội thứ nhất 10 lần, Đội thứ hai 5X 10x First Team, 5x Second Team

All-Star: 19x: 19x

Giải vô địch: 6: 6

Không ai bị lu mờ Kareem Abdul-Jabbar, sáu giải thưởng MVP và đó là một lý do chính đáng. Sự xuất sắc của anh ấy kéo dài hơn hai thập kỷ, giành sáu chức vô địch trên đường đi. Trước khi là một phần của Showtime Lakers, Jabbar đã giành được một vòng vô địch với Milwaukee Bucks vào năm 1971 nhưng có một hạn hán dài.

38.837 điểm của anh ấy đã đứng trước thử thách của thời gian. Nó đã gần 20 năm kể từ khi ông nghỉ hưu và kỷ lục vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

Nhưng nó không thể nói về Kareem mà không nói về Skyhook. Động thái đặc trưng của anh ấy là một trong những hình ảnh bền bỉ nhất trong lịch sử NBA và một hình ảnh có khả năng sẽ không bao giờ được nhân rộng.

Thuyền trưởng đã giành được năm chức vô địch với giao thông chỉ đạo ma thuật trong thời kỳ Lakers Showtime.

Năm 2016, ESPN xếp anh là cầu thủ giỏi thứ hai trong lịch sử NBA chỉ sau Michael Jordan vĩ đại. Nhưng nếu bạn hỏi Isiah Thomas, người cầm đầu pistons vào những năm 1980, người đã đối đầu với Lakers của mình, Abdul-Jabbar là cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại, đặc biệt là nếu bạn xem xét sự thống trị của anh ấy từ thời trung học của anh ấy trong sự nghiệp đại học của anh ấy và mọi cách cho hàng ngũ chuyên nghiệp.

3. Héo Chamberlain

Trung bình nghề nghiệp: 30,1 điểm, 22,9 rebound, 4,4 hỗ trợ 30.1 points, 22.9 rebounds, 4.4 assists

MVP: 4: 4

All-NBA: Đội thứ nhất 7x, Đội thứ hai 3x 7x First Team, 3x Second Team

All-Star: 13x 13x

Giải vô địch: 2: 2

Wilt Chamberlain là một nhân vật lớn hơn cuộc sống, một trong những người khó xếp hạng nhất trong một danh sách lớn nhất mọi thời đại. Vụ việc phải chịu nhận thức rằng anh ta không tốt như quảng cáo khi hết lần này đến lần khác các đội của anh ta sẽ bị loại bởi Russell Russell Celtics. Nhưng bạn có thể tưởng tượng có bao nhiêu chiếc nhẫn Chamberlain sẽ sở hữu nếu anh ta và Russell có & nbsp; không chơi đồng thời? Chúng tôi có thể xếp anh ấy số một trong danh sách này cùng với mọi trang web thể thao khác.

7 chân đã thay đổi trò chơi khi NBA quyết định mở rộng làn đường để hạn chế sự thống trị của anh ấy đối với những người chơi nhỏ hơn. Anh ta là người khổng lồ thực sự thứ hai (sau Mikan) trên gỗ cứng và chỉ có những người Celt, người thực sự hạ mình là giải đấu thần thoại không thể ngăn cản được với năng lực phòng thủ của Russell, đối tượng bất động của họ. Bất chấp những thất bại trong vòng playoffs, Chamberlain sở hữu các kỷ lục có thể sẽ không bao giờ bị phá vỡ như màn trình diễn 100 điểm của anh ấy trước New York Knicks và 55 rebound mà anh ấy đã giành được trong một trận đấu với Celtics. Có một mùa giải mà Chamberlain không bao giờ để lại một trận bóng rổ để nghỉ ngơi, trung bình 48,5 phút một trò chơi. Điều đó cho chúng ta thấy rằng anh ta chỉ đơn thuần là đùa giỡn với giải đấu thông qua quy mô và tài năng lớn của mình.

Trước khi Jordan trói anh ta, Wilt đã giữ kỷ lục cho các mùa giải liên tiếp nhất dẫn đầu giải đấu ghi bàn với bảy. Nhưng có lẽ thành tựu lớn nhất của anh ấy là khi anh ấy dẫn đầu giải đấu trong tổng số hỗ trợ trong mùa giải 1968, trung bình 8,6 hỗ trợ trong sự nghiệp mỗi trận đấu. Không có gì anh ta không thể làm trên gỗ cứng miễn là anh ta đặt tâm trí để làm điều đó.

2. LeBron James

Trung bình nghề nghiệp: 27,1 điểm, 7,5 rebound, 7,4 hỗ trợ 27.1 points, 7.5 rebounds, 7.4 assists

MVP: 4: 4

All-NBA: Đội thứ nhất 7x, Đội thứ hai 3x 13x First Team, 3x Second Team, 1x Third Team

All-Star: 13x 5x First Team 1x Second Team

Giải vô địch: 2 18x

Wilt Chamberlain là một nhân vật lớn hơn cuộc sống, một trong những người khó xếp hạng nhất trong một danh sách lớn nhất mọi thời đại. Vụ việc phải chịu nhận thức rằng anh ta không tốt như quảng cáo khi hết lần này đến lần khác các đội của anh ta sẽ bị loại bởi Russell Russell Celtics. Nhưng bạn có thể tưởng tượng có bao nhiêu chiếc nhẫn Chamberlain sẽ sở hữu nếu anh ta và Russell có & nbsp; không chơi đồng thời? Chúng tôi có thể xếp anh ấy số một trong danh sách này cùng với mọi trang web thể thao khác.: 4

7 chân đã thay đổi trò chơi khi NBA quyết định mở rộng làn đường để hạn chế sự thống trị của anh ấy đối với những người chơi nhỏ hơn. Anh ta là người khổng lồ thực sự thứ hai (sau Mikan) trên gỗ cứng và chỉ có những người Celt, người thực sự hạ mình là giải đấu thần thoại không thể ngăn cản được với năng lực phòng thủ của Russell, đối tượng bất động của họ. Bất chấp những thất bại trong vòng playoffs, Chamberlain sở hữu các kỷ lục có thể sẽ không bao giờ bị phá vỡ như màn trình diễn 100 điểm của anh ấy trước New York Knicks và 55 rebound mà anh ấy đã giành được trong một trận đấu với Celtics. Có một mùa giải mà Chamberlain không bao giờ để lại một trận bóng rổ để nghỉ ngơi, trung bình 48,5 phút một trò chơi. Điều đó cho chúng ta thấy rằng anh ta chỉ đơn thuần là đùa giỡn với giải đấu thông qua quy mô và tài năng lớn của mình. 4

Trước khi Jordan trói anh ta, Wilt đã giữ kỷ lục cho các mùa giải liên tiếp nhất dẫn đầu giải đấu ghi bàn với bảy. Nhưng có lẽ thành tựu lớn nhất của anh ấy là khi anh ấy dẫn đầu giải đấu trong tổng số hỗ trợ trong mùa giải 1968, trung bình 8,6 hỗ trợ trong sự nghiệp mỗi trận đấu. Không có gì anh ta không thể làm trên gỗ cứng miễn là anh ta đặt tâm trí để làm điều đó.

2. LeBron James

Sơ yếu lý lịch của anh ấy chứa đầy những giải thưởng và hồ sơ bị phá vỡ có thể lấp đầy toàn bộ cuốn sách 200 trang. Với số liệu thống kê nâng cao và lưu giữ hồ sơ ngày hôm nay, chúng tôi có thể theo dõi những gì người chơi đang làm là rất tốt trong lịch sử. Trên bảng xếp hạng của việc tạo ra lịch sử và phá kỷ lục là đứa trẻ đến từ Akron, người tiếp tục thêm vào di sản của mình với mọi trò chơi mà anh ấy chơi.

Cuộc tranh luận lớn nhất trong mọi thời đại của mọi thời đại được các phương tiện truyền thông thảo luận gần như mỗi mùa vì khai thác hàng đêm của James. Trên thực tế, chưa bao giờ cuộc thảo luận này trở nên phổ biến như những năm trước sau khi anh tuyên bố rằng chức vô địch khó nắm bắt vào năm 2012. Kể từ đó, anh đã làm việc theo cách của mình trong số các bậc thang lớn nhất mọi thời đại, vượt qua những người chơi khác trong cuộc thảo luận như Larry Bird, Magic Johnson, Bill Russell, Kareem Abdul-Jabbar và Wilt Chamberlain.

Trước khi sự nghiệp kết thúc, anh ta thậm chí có thể đảm nhận vị trí số một trong danh sách này, đặc biệt nếu anh ta giành được một danh hiệu khác với Lakers sau khi mang về nhà vô địch 2019-20, nhưng đó là một cuộc tranh luận cho một lần khác. Hiện tại, hãy để Lừa chỉ là nhân chứng và xem trong sự sợ hãi về hiện tượng này được gọi là LeBron James.

1. Michael Jordan

Trung bình nghề nghiệp: 30,1 điểm, 6,2 rebound, 5,3 hỗ trợ 30.1 points, 6.2 rebounds, 5.3 assists

Giải thưởng MVP: 5 5

All-NBA: Đội thứ nhất 10 lần, Đội thứ hai 1x 10x First Team, 1x Second Team

All-Star: 14x 14x

Giải vô địch: 6: 6

Cầu thủ vĩ đại nhất từng dùng một đôi giày bóng rổ không ai khác ngoài Michael Jeffrey Jordan. Huyền thoại 6 feet 6 đã gây bão trong cơn bão ngay khi anh đặt chân lên một cây gỗ cứng NBA. Khi người bảo vệ bắn súng trẻ tuổi nhưng thể thao bắt đầu sự nghiệp, Jordan được coi là một cỗ máy ghi bàn nhiều hơn mặc dù anh ta là một hậu vệ xuất sắc và là một người qua đường. Anh ta trung bình nhiều hỗ trợ cho mỗi trò chơi hơn hầu hết, nếu không phải tất cả, về những người bảo vệ bắn súng đồng nghiệp của anh ta.

Đó là cho đến khi anh giành được chức vô địch đầu tiên, anh được coi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất trong trò chơi. Sáu chức vô địch sau đó (không thua trong trận chung kết), Jordan ngồi trên đỉnh cuộc thảo luận về cuộc tranh luận về người chơi vĩ đại nhất mặc dù James xông liên tục tấn công vào những thành tựu của anh ấy. Người chơi thứ hai có thể hoặc không thể bắt kịp người trước, nhưng bây giờ, Jordan ngồi trên ngai vàng với những đồng nghiệp còn lại tôn vinh anh ta vì những thành tựu của anh ta.

MVP năm lần là một sát thủ trên sân, hạ gục những người đối thủ với mọi hình dạng và kích cỡ. Không ai an toàn trước đám cháy cạnh tranh của Jordan, khi anh ta dập tắt tất cả những người đến trên đường để giành được sáu MVP Chung kết để đi cùng với sáu chiếc nhẫn của mình. Jordan sở hữu nhiều giải thưởng và hồ sơ, hầu hết tiếp tục chịu đựng cho đến ngày nay.

Bên cạnh các chức vô địch, Jordan còn nổi tiếng vì đã bắn một cú sút ly hợp khác, lên đến đỉnh điểm trong một số người chiến thắng trong trò chơi và những người đánh chuông là những thứ của huyền thoại. Điều đặc biệt đáng kinh ngạc về tình trạng huyền thoại của Jordan, là không ai trong số này được tạo thành. Anh ta sống theo sự cường điệu và bí ẩn. Không ai trong số đó là một sản phẩm của trí tưởng tượng.

Đó là lý do tại sao nếu có bất cứ ai xứng đáng được đứng đầu trong danh sách những người chơi vĩ đại nhất, thì đó là Jordan Jordan.

Ai là cầu thủ 20 NBA tốt nhất mọi thời đại?

20 cầu thủ NBA vĩ đại nhất mọi thời đại..
Shaquille O'Neal. ....
Tim duncan. ....
Chim ruồi. ....
Magic Johnson. ....
Héo Chamberlain. ....
Kareem Abdul-Jabbar. ....
Michael Jordan. ....
LeBron James. Lebron James Maddie Meyer/Getty Images ..

Ai là cầu thủ bóng rổ số 1 mọi thời đại?

1.
Kareem Abdul-Jabbar
38387
2.
LeBron James
37311
3.
Karl Malone
36928
4.
Kobe Bryant
33643
5.
Michael Jordan
32292
Tất cả các nhà lãnh đạo thời gian |Số liệu thống kê - NBA.comwww.nba.com ›Số liệu thống kê› Alltimenull

Ai là cầu thủ 10 NBA hàng đầu mọi thời đại?

10 người chơi NBA hàng đầu mọi thời đại?Michael Jordan - Hầu hết các điểm mỗi trận - hầu hết các trận chung kết MVP.LeBron James.Kareem Abdul-Jabbar-Hầu hết các giải thưởng MVP.Magic Johnson.Kobe Bryant.Shaquille O'Neal.Chim ruồi.Héo Chamberlain.Bill Russell.Tim duncan..
Những người chơi NBA khác có hiệu suất tốt nhất trong lịch sử NBA ..
Suy nghĩ cuối cùng ..

Ai là cầu thủ bóng rổ hàng đầu mọi thời đại?

10 cầu thủ bóng rổ vĩ đại nhất mọi thời đại..
Shaquille O'Neal.....
Chim ruồi.....
Bill Russell.....
Oscar Robertson.....
Héo Chamberlain.....
Magic Johnson.....
Michael Jordan.....
LeBron James.Lebron James Maddie Meyer/Getty Images ..

Chủ đề