10 cường quốc mạng hàng đầu năm 2022

Chiến lược của một số cường quốc tác động đến quốc phòng, an ninh khu vực và Việt Nam

Chính sách, chiến lược của một số cường quốc tác động sâu sắc đến quốc phòng, an ninh khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu, nắm chắc các nội dung này là cơ sở quan trọng để Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Chiến lược của một số cường quốc

Trung Quốc là quốc gia có lợi ích gắn liền với lợi ích của châu Á - Thái Bình Dương - khu vực có tầm quan trọng lớn nhất thế giới về kinh tế, an ninh và chính trị. Vì vậy, nước này luôn xác định và theo đuổi mục tiêu nâng cao vai trò, vị thế, gia tăng sự ảnh hưởng đối với khu vực. Những năm gần đây, nhờ cải cách đất nước thành công, Trung Quốc trở thành quốc gia có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, sau Mỹ. Không dừng ở đó, họ liên tục đưa ra các chính sách, chiến lược, nhằm phát triển đất nước trở thành cường quốc số 1 thế giới. Thực hiện sáng kiến “Vành đai và con đường”, Trung Quốc đầu tư hàng nghìn tỉ USD vào nhiều nước, trong đó có các nước Đông Nam Á (ASEAN) để hợp tác, giúp các nước này phát triển kinh tế; đồng thời, tăng cường sự ảnh hưởng, chi phối an ninh, chính trị và nhiều mục tiêu chiến lược khác. Với lợi thế sức mạnh kinh tế, Trung Quốc triệt để lợi dụng vấn đề này chi phối hoạt động sản xuất, cung ứng toàn cầu và quan hệ quốc tế của các nước. Tuy nhiên, họ cũng chịu tác động không nhỏ từ môi trường quốc tế và khu vực, nên phải điều chỉnh các chính sách, đưa ra chiến lược “tuần hoàn kép” để nỗ lực thúc đẩy kinh tế tiêu dùng trong nước, tự chủ về công nghệ và tăng cường quan hệ quốc tế. Cùng với đó, Trung Quốc chú trọng củng cố sức mạnh quân sự, hiện đại hóa quân đội, gia tăng hoạt động quân sự ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Biển Đông, như: diễn tập phô trương sức mạnh vũ khí, phương tiện quân sự; đưa ra bộ luật Hải cảnh, v.v. Những hành động đó đã và đang làm cho tình hình an ninh khu vực, nhất là trên Biển Đông trở nên phức tạp hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường hòa bình, ổn định và sự phát triển của khu vực.

Nga có chiến lược khá phù hợp ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong Chiến lược an ninh quốc gia, Nga xác định: Mỹ và NATO là đối thủ đe dọa an ninh hàng đầu. Theo đó, Nga thực hiện chính sách kiềm chế Mỹ, cân bằng với Trung Quốc, xử lý ổn thỏa quan hệ với Nhật Bản, các nước ASEAN và tăng cường can dự, nâng cao vai trò ở châu Á - Thái Bình Dương. Đồng thời, tăng cường sức mạnh quân sự với việc hiện đại hóa quân đội, thành lập các đơn vị chiến lược mới, phát triển vũ khí chiến lược, vũ khí ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI),… theo đuổi ý tưởng thành lập Liên minh kinh tế Á - Âu, thực hiện mục tiêu chiến lược trở thành siêu cường, cạnh tranh với Mỹ trên phạm vi toàn cầu, trước mắt ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nga một mặt đẩy mạnh hợp tác kinh tế, thu hút đầu tư, công nghệ và thương mại với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc; mặt khác, chú trọng quan hệ, hợp tác với Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, quốc phòng, an ninh,… nhằm làm suy giảm vị thế chiến lược của Mỹ và kết nối với các nền kinh tế mới nổi trong nhóm BRICS làm đối trọng với nhóm các nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới (G-7) do Mỹ đứng đầu. Đặc biệt, Nga xác định Việt Nam là cửa ngõ để tiếp cận các nước ASEAN nên đã nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam, nhằm tăng cường ảnh hưởng, tìm lại vị thế cường quốc không chỉ với Đông Nam Á mà cả khu vực châu Á - Thái Bình Dương và thế giới.

Với Mỹ, châu Á - Thái Bình Dương có vai trò hết sức quan trọng trong lợi ích chiến lược và an ninh của họ. Thực hiện chính sách “nước Mỹ trên hết”, chính quyền Tổng thống Donald Trump chuyển trọng tâm chiến lược về châu Á - Thái Bình Dương; đưa ra Chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, với mục tiêu: duy trì sự lãnh đạo lâu dài tại khu vực và toàn cầu, cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc, Nga; thúc đẩy thương mại tự do, bình đẳng; duy trì không gian biển và bầu trời mở trong khu vực; giải quyết hiệu quả các thách thức an ninh phi truyền thống, v.v. Hiện nay, chính quyền Tổng thống Joe Biden vẫn tiếp nối chiến lược của người tiền nhiệm, nhưng chính sách mới khẳng định: thúc đẩy hợp tác chiến lược với các đồng minh, đối tác; tăng cường can dự cả về kinh tế, chính trị, an ninh; cạnh tranh chiến lược, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không; bảo vệ lợi ích, an ninh của Mỹ và đồng minh, đối tác; giữ vị thế, ảnh hưởng của Mỹ, ngăn chặn, kiềm chế sự “trỗi dậy” của Trung Quốc.

Ngoài ra, một số cường quốc ở khu vực châu Á, châu Âu cũng thấy rõ tầm quan trọng của châu Á - Thái Bình Dương nên đã đưa ra chính sách, chiến lược đối với khu vực này, như: Ấn Độ có chính sách “Hành động hướng Đông”; Australia có chiến lược quốc phòng, trọng tâm nâng cao sức mạnh quân sự ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương; Pháp, Đức, Anh,... đưa ra chiến lược châu Á - Thái Bình Dương, v.v. Tuy mỗi nước có cách gọi, mức độ đánh giá, nội dung, biện pháp chiến lược và hành động khác nhau, nhưng họ đều có điểm chung là, tăng cường ảnh hưởng, thể hiện vai trò cường quốc, bảo đảm an ninh, lợi ích quốc gia khu vực; lôi kéo, hợp tác với đồng minh và đối tác, tạo sức mạnh cạnh tranh chiến lược với các “đối thủ”, nhằm đạt được mục tiêu chính trị, kinh tế.

Tác động đến quốc phòng, an ninh khu vực và Việt Nam

Thứ nhất, các cường quốc thế giới cạnh tranh quyết liệt nhằm nâng cao vị thế, gia tăng sự ảnh hưởng, hoạt động can dự, chi phối, tác động, buộc các nước vừa và nhỏ phải lệ thuộc vào chính sách, chiến lược của mình. Sự cạnh tranh chiến lược của một số quốc gia có nền kinh tế phát triển sẽ thúc đẩy hợp tác sâu rộng, mang lại môi trường, điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trên nhiều lĩnh vực: phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh và là cơ hội để khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Tuy nhiên, sự cạnh tranh này cũng dẫn đến nhiều bất lợi, tác động tiêu cực đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam. Nếu chúng ta không kiểm soát tốt, sẽ dẫn đến nguy cơ mất tự chủ, phụ thuộc, thậm chí chệch hướng quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chúng ta cần chủ động nghiên cứu, nắm chắc tình hình, dự báo chính xác chiến lược của các cường quốc, các đối tác chiến lược, làm cơ sở tham mưu, hoạch định chủ trương, chiến lược, đối sách, giải pháp, khâu đột phá phù hợp, khoa học, không để bị động, bất ngờ; giảm thiểu, ngăn chặn tác động tiêu cực; kiên quyết không để lệ thuộc vào nước ngoài; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là thành tựu cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ Tư đang tạo nhiều cơ hội cho Việt Nam thực hiện chủ trương “đi tắt, đón đầu”, tiếp cận, ứng dụng vào phát triển kinh tế đất nước, hiện đại hóa Quân đội, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, nâng cao khả năng phòng thủ đất nước. Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức trong đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao, tác chiến không gian mạng, v.v. Do vậy, chúng ta cần tăng cường hợp tác, phối hợp với các nước, các đối tác; thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp hạn chế, ngăn chặn tác động tiêu cực. Đồng thời, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học: công nghệ thông tin, kỹ thuật quân sự, nghệ thuật quân sự; phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng hiện đại và “lưỡng dụng”; tập trung nghiên cứu, sản xuất các loại vũ khí, trang bị hiện đại, công nghệ mới, ứng dụng trí tuệ nhân tạo; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân hiện đại.

Thứ ba, chính sách, chiến lược của một số cường quốc không chỉ chi phối, lôi kéo các nước trong khu vực, gây mâu thuẫn, chia rẽ các nước trong khối ASEAN, mà còn tác động đến quốc phòng, an ninh khu vực và Việt Nam. Vì vậy, các nước trong khối ASEAN cần tỉnh táo, cảnh giác trước chính sách, chiến lược của các cường quốc trong khu vực và thế giới, đặc biệt là mưu đồ của họ ở Biển Đông; từ đó, có chính sách, chiến lược hợp lý, giữ vững quan điểm, lập trường trên cơ sở Hiến chương ASEAN, luật pháp quốc tế; kiên trì giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình. Đặc biệt là, tăng cường đoàn kết nội khối, tập trung xây dựng ASEAN vững mạnh, phát huy vai trò, trách nhiệm với cộng đồng, có chứng kiến, đấu tranh với những hành động coi thường, bỏ qua luật lệ quốc tế, tranh chấp, vi phạm chủ quyền lãnh thổ trên bộ, trên không, trên biển, đảo của một số cường quốc. Tuyệt đối không để các cường quốc khu vực, thế giới lợi dụng chi phối, dẫn đến lệ thuộc về chính trị, kinh tế, đối ngoại, làm phương hại đến lợi ích, an ninh của mỗi quốc gia và khu vực ASEAN. Đồng thời, nắm chắc tình hình mọi mặt, có chính sách thích hợp trong giải quyết các vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh; tích cực đóng góp vào sự đoàn kết, chống chủ nghĩa cường quyền, áp đặt của một số cường quốc đối với khu vực, xây dựng cộng đồng ASEAN “hòa bình, ổn định, độc lập và tự chủ”.

Thứ tư, cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm. Các cường quốc vừa hợp tác, thỏa hiệp để bảo vệ lợi ích, vị thế, ảnh hưởng của mình, vừa kiềm chế, ngăn chặn ảnh hưởng của “đối thủ” chiến lược trong khu vực và thế giới. Cho dù vậy, các cường quốc vẫn phải tuân thủ luật pháp, công ước quốc tế đã ký kết và tôn trọng độc lập, chủ quyền, lợi ích, thể chế chính trị của các nước; bởi, đây là mục tiêu, lợi ích, trách nhiệm, nguyện vọng chung của các nước và cộng đồng quốc tế, nhằm giảm thiểu thách thức, bảo đảm an ninh trong khu vực, thế giới. Điều đó, thuận lợi cho ta đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo theo đúng luật pháp, công ước quốc tế. Để thực hiện có hiệu quả, phải chủ động nắm, dự báo chính xác tình hình, dự kiến phương án, đối sách thích hợp; tránh đối đầu, bị cô lập, bị “kẹt” trước mưu đồ, toan tính chiến lược hay thỏa hiệp của các cường quốc; làm hạn chế yếu tố bất lợi và khai thác yếu tố có lợi, giải quyết tốt các vấn đề “đối tác, đối tượng”. Chủ động ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là nguy cơ gây đột biến; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Nghiên cứu, nắm chắc chính sách, chiến lược của một số cường quốc và sự tác động đa chiều tới quốc phòng, an ninh Việt Nam là tiền đề quan trọng để tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Trung tướng, PGS, TS. TRẦN VIỆT KHOA, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Quốc phòng

@pabischoffupdated: ngày 26 tháng 9 năm 2022 UPDATED: September 26, 2022

Với rất nhiều dữ liệu cá nhân của chúng tôi được lưu trữ trực tuyến, an ninh mạng là vô cùng quan trọng.

Mỗi năm, nghiên cứu của chúng tôi xem xét hơn 60 quốc gia để tìm ra nơi trên thế giới mà bạn có thể an toàn trên mạng nhất. Năm nay, chúng tôi đã phân tích 75 quốc gia, đánh giá từng người trong số họ với một danh sách mở rộng gồm 15 tiêu chí (báo cáo trước đây có 7). Điều này có nghĩa là các quốc gia hiện được xếp hạng từ một đến 75 với một quốc gia an toàn không an toàn nhất và 75 là quốc gia an toàn mạng nhất.

Các tiêu chí mới như sau:

  • % điện thoại di động bị nhiễm phần mềm độc hại
  • % người dùng bị tấn công bởi Trojans ngân hàng di động
  • % người dùng bị tấn công bởi Trojans ransomware di động
  • % chia sẻ người dùng bị tấn công bởi phần mềm độc hại ngân hàng (không phải di động)
  • % người dùng bị tấn công bởi ransomware Trojans (không phải di động)
  • % máy tính bị nhiễm ít nhất một cuộc tấn công phần mềm độc hại (dựa trên web)
  • % máy tính phải đối mặt với ít nhất một cuộc tấn công phần mềm độc hại địa phương
  • % người dùng di động bị tấn công qua các nguồn web
  • % các cuộc tấn công telnet bằng quốc gia có nguồn gốc (IoT)
  • % các cuộc tấn công của tiền điện tử
  • % các cuộc tấn công dựa trên SSH của Quốc gia có nguồn gốc (IoT)
  • % của tất cả các email thư rác của quốc gia có nguồn gốc
  • % chia sẻ của các quốc gia được nhắm mục tiêu là gửi thư độc hại
  • % máy tính bị tấn công bởi lừa đảo
  • Các quốc gia được chuẩn bị tốt nhất cho các cuộc tấn công mạng

Và, với tác động của Covid-19 đối với bối cảnh an ninh mạng, chúng tôi cũng quyết định xem xét cách các cuộc tấn công phần mềm độc hại liên quan đến Covid-19 ảnh hưởng đến mỗi quốc gia, ghi điểm riêng cho nghiên cứu đầy đủ.

Vậy quốc gia nào là an toàn mạng nhất và ít nhất? Và có quốc gia nào xuất hiện trên đỉnh của lớp học không?

Thật không may, tương tự như những năm trước, đã có một quốc gia mà ACED đã làm cho mỗi bài kiểm tra. Trên thực tế, các quốc gia thường hoạt động tốt trong một lĩnh vực nhưng thiếu một cách đáng lo ngại ở những người khác.

Đó là quốc gia nào ít an toàn trên mạng trên thế giới?

Theo nghiên cứu của chúng tôi, Tajikistan là quốc gia an toàn mạng ít nhất trên thế giới, tiếp theo là Bangladesh và Trung Quốc.

Tajikistan có tỷ lệ người dùng cao nhất bị tấn công bởi phần mềm độc hại của ngân hàng (4,7%), máy tính phải đối mặt với ít nhất một cuộc tấn công phần mềm độc hại địa phương (41,16%) và tấn công bởi các loại tiền điện tử (5,7%). Nó cũng đạt điểm kém cho tỷ lệ người dùng bị tấn công bởi Ransomware Trojans (1,35%). Nhưng, đây cũng là một trong những quốc gia có điểm số tốt hơn trong một số loại, bao gồm tỷ lệ người dùng bị tấn công thông qua các nguồn web (0,03%), tỷ lệ phần trăm của các cuộc tấn công telnet bằng quốc gia có nguồn gốc (0,01%), tỷ lệ phần trăm của các email spam bởi quốc gia có nguồn gốc (0,01 %), và chia sẻ của các quốc gia được nhắm mục tiêu bởi các thư độc hại (0,01%). Người dùng bằng không đã bị tấn công bởi Trojans ransomware di động và không có các cuộc tấn công dựa trên SSH nào bắt nguồn từ Tajikistan.

Điều này chỉ nhấn mạnh sự khác biệt lớn của mỗi quốc gia về an ninh mạng và các mối đe dọa mạng (các mối đe dọa đối với chính đất nước và mối đe dọa mà nó đặt ra cho các quốc gia khác) có thể. Ví dụ, Tajikistan dường như đặc biệt dễ bị tổn thương với phần mềm độc hại nhưng không phải là nguồn gốc của nhiều cuộc tấn công, cũng không phải là mục tiêu cho thư rác và các thư độc hại khác.

Các quốc gia có điểm cao nhất cho mỗi danh mục là:

  • Điện thoại di động bị nhiễm phần mềm độc hại
    1. Iran - 30,29%
    2. Algeria - 21,97%
    3. Bangladesh - 17,18%
  • Người dùng bị tấn công bởi Trojans ngân hàng di động
    1. Nhật Bản - 1,89%
    2. Thổ Nhĩ Kỳ - 0,33%
    3. Ý - 0,31%
  • Người dùng bị tấn công bởi Trojans ransomware di động
    1. Kazakhstan - 0,57%
    2. Kyrgyzstan - 0,14%
    3. Trung Quốc - 0,09%
  • Tỷ lệ người dùng bị tấn công bởi phần mềm độc hại ngân hàng
    1. Tajikistan - 4,7%
    2. Uzbekistan - 4,6%
    3. Iran - 1,6%
  • Người dùng bị tấn công bởi ransomware Trojans
    1. Bangladesh - 2,37%
    2. Haiti - 1,38%
    3. Tajikistan - 1,35%
  • Máy tính bị nhiễm ít nhất một cuộc tấn công phần mềm độc hại (dựa trên web)
    1. Việt Nam - 8,69%
    2. Bangladesh - 7,34%
    3. Latvia - 7,31%
  • Máy tính phải đối mặt với ít nhất một cuộc tấn công phần mềm độc hại địa phương
    1. Tajikistan - 41,16%
    2. Bangladesh - 39,9%
    3. Uzbekistan - 36,58
  • Người dùng di động bị tấn công qua các nguồn web
    1. Ecuador - 6,33%
    2. Ô -man - 4,98%
    3. Morocco - 4,51%
  • Tỷ lệ các cuộc tấn công telnet bằng quốc gia có nguồn gốc (IoT)
    1. Ấn Độ - 19,99%
    2. Trung Quốc - 15,46%
    3. Ai Cập - 9,77%
  • Tỷ lệ phần trăm tấn công của tiền điện tử
    1. Tajikistan - 5,7%
    2. Kyrgyzstan - 2,51%
    3. Uzbekistan - 2,46%
  • Các cuộc tấn công dựa trên SSH của Interpresating Country (IoT)
    1. Trung Quốc - 28,56%
    2. Hoa Kỳ - 14,75%
    3. Đức - 4,67%
  • Email spam của quốc gia có nguồn gốc
    1. Nga - 21,27%
    2. Đức - 10,97%
    3. Hoa Kỳ - 10,47%
  • Chia sẻ của các quốc gia được nhắm mục tiêu bằng thư độc hại
    1. Tây Ban Nha - 8,48%
    2. Đức - 7,28%
    3. Nga - 6,29%
  • Máy tính bị tấn công bởi lừa đảo
    1. Brazil - 19,94%
    2. Bồ Đào Nha - 19,73%
    3. Pháp - 17,9%
  • Chỉ số an ninh mạng toàn cầu
    1. Honduras - 0,044
    2. Haiti - 0,046
    3. Bolivia - 0.139

Nước nào là quốc gia an toàn mạng nhất thế giới?

Giống như vào năm 2019 và 2020, quốc gia an toàn nhất là Đan Mạch, có tổng điểm 3,56. Nó được đặt trong top ba 10 lần trong số 15 người có thể, đạt điểm đặc biệt tốt trong các danh mục như tỷ lệ người dùng bị tấn công bởi Ransomware Trojans (0,02%) và tỷ lệ phần trăm của các cuộc tấn công của tiền điện tử (0,11%). Đất nước này cũng không có người dùng nào bị tấn công bởi Trojans ransomware di động và Trojans ngân hàng di động.

Tuy nhiên, đó là quốc gia duy nhất được coi là an toàn nhất 10 lần. Ở vị trí thứ mười một là Haiti, nơi cũng thích giải thưởng này. Tuy nhiên, điểm số Haiti đã tăng lên do nó nằm trong ba quốc gia tồi tệ nhất cho tỷ lệ người dùng bị tấn công bởi Ransomware Trojans và cho điểm số chỉ số an ninh mạng toàn cầu của mình. Một lần nữa, điều này nhấn mạnh làm thế nào nó không phổ biến khi một quốc gia xếp hạng tốt trong một loại và kém ở một quốc gia khác.

Các quốc gia có điểm số thấp nhất theo danh mục là:

  • Tỷ lệ điện thoại di động bị nhiễm phần mềm độc hại
    1. Phần Lan - 1,06%
    2. Ukraine - 1,15%
    3. Đan Mạch - 1,33%
  • Người dùng bị tấn công bởi Trojans ngân hàng di động
    1. Nhật Bản - 1,89%
  • Người dùng bị tấn công bởi Trojans ransomware di động
    1. Kazakhstan - 0,57%
  • Kyrgyzstan - 0,14%
    1. Trung Quốc - 0,09%
    2. Bolivia - 0,05%
    3. Đan Mạch, Ireland và Panama - 0,10%
  • Tỷ lệ người dùng bị tấn công bởi ransomware Trojans
    1. Đan Mạch - 0,02%
    2. Thụy Điển - 0,03%
    3. Ireland và Romania - 0,04%
  • Tỷ lệ phần trăm của máy tính bị nhiễm ít nhất một cuộc tấn công phần mềm độc hại (dựa trên web)
    1. Haiti - 0,48%
    2. Đan Mạch - 1,33%
    3. Ireland - 1,35%
  • Máy tính phải đối mặt với ít nhất một cuộc tấn công phần mềm độc hại địa phương
    1. Đan Mạch - 2,83%
    2. Thụy Điển - 3,34%
    3. Ireland - 3,49%
  • Người dùng di động bị tấn công qua các nguồn web
    1. Haiti và Tajikistan - 0,03%
    2. Nga và Trung Quốc - 0,04%
    3. Armenia - 0,05%
  • Tỷ lệ các cuộc tấn công telnet bằng quốc gia có nguồn gốc (IoT)
    1. Haiti, Tajikistan, Algeria và Qatar - 0,01%
    2. Đan Mạch, Phần Lan, Kuwait, Kyrgyzstan, Ô -man, Sri Lanka và Uzbekistan - 0,02%
    3. Azerbaijan và Thụy Sĩ - 0,03%
  • Chia sẻ các cuộc tấn công của tiền điện tử
    1. Haiti - 0,05%
    2. Đan Mạch và Nhật Bản - 0,11%
    3. Đức - 0,12%
  • Tỷ lệ các cuộc tấn công dựa trên SSH của Quốc gia gốc (IoT)
    1. Tajikistan - 0,00%
    2. Haiti và Azerbaijan - 0,01%
    3. Armenia và Kyrgyzstan - 0,02%
  • Chia sẻ tất cả các email spam bằng cách bắt nguồn quốc gia
    1. Haiti - 0,00%
    2. Tajikistan và Ô -man - 0,01%
    3. Qatar và UAE - 0,02%
  • Chia sẻ của các quốc gia được nhắm mục tiêu bằng thư độc hại
    1. Tajikistan, Na Uy và Phần Lan - 0,01%
    2. Haiti và Kyrgyzstan - 0,02%
    3. Georgia - 0,04%
  • Máy tính bị tấn công bởi lừa đảo
    1. Haiti - 1,94%
    2. Đan Mạch - 3,26%
    3. Thụy Điển - 3,35%
  • Chỉ số an ninh mạng toàn cầu
    1. Vương quốc Anh - 0,931
    2. Hoa Kỳ - 0,926
    3. Pháp - 0,918

Các cuộc tấn công cụ thể của Covid-19 đã ảnh hưởng đến các quốc gia như thế nào?

Vài năm qua đã chứng kiến ​​sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các cuộc tấn công mạng, một phần do sự thay đổi của thế giới sang làm việc từ xa. Chúng tôi cũng đã thấy tội phạm mạng đổi thương hiệu cho các chiến dịch lừa đảo và lừa đảo hiện tại để tận dụng sự không chắc chắn của mọi người về sự hỗ trợ và phòng ngừa của Covid-19.

Vì vậy, chúng ta đang nói về sự gia tăng lớn như thế nào? Chà, Securelist nhận thấy rằng dưới một năm, số lượng các tệp độc hại được ngụy trang tại các công cụ gặp gỡ ảo như Zoom và Slack tăng hơn 1000 phần trăm. Chỉ riêng trong vài tháng đầu năm 2020, Kaspersky đã thông báo rằng số lượng các cuộc tấn công DDoS toàn cầu đã tăng hơn gấp đôi, và nó đã chứng kiến ​​sự gia tăng nổi bật về số lượng cuộc tấn công của các nhà tiền điện tử và Trojans ngân hàng di động.

Một số quốc gia cũng nhìn thấy những đột biến đáng kể nơi những người khác có lẽ đã làm. Ví dụ, ở Ấn Độ, đã có sự gia tăng đáng kể trong% các cuộc tấn công telnet bằng quốc gia có nguồn gốc (IoT) - tăng 54,14% (3,14% đến 4,84%) từ quý 1 đến quý 2 và 313,02% (4,84% đến 19,99%) Từ quý 2 đến quý 3.

McAfee đã từng có một bản đồ trực tiếp phát hiện tệp độc hại liên quan đến Covid-19, mặc dù điều này không còn hoạt động. Tuy nhiên, mặc dù chúng tôi cũng đã xem xét nơi phần lớn các tệp được phát hiện và liệu điều này có tạo ra sự khác biệt cho điểm số tổng thể của đất nước hay không.

Trong đại dịch, một số quốc gia Điểm nhiễm trùng phần mềm độc hại tăng nhẹ (Ấn Độ, Ý, Nam Phi và Ukraine) nhưng những người bị ảnh hưởng nhất là Tây Ban Nha và Mỹ. Họ chiếm hơn 48% tổng số các tệp được phát hiện và khi tính đến điều này với điểm số của chúng tôi, bảng xếp hạng của họ giảm từ 17 xuống còn 8 và từ 31 xuống còn 11.

Cải thiện an ninh mạng của bạn với danh sách của chúng tôi:

  • Nhà cung cấp VPN
  • Chống vi -rút
  • Bảo vệ trộm cắp danh tính

Phương pháp của chúng tôi: Làm thế nào chúng tôi tìm thấy các quốc gia có an ninh mạng tồi tệ nhất?

Chúng tôi đã xem xét mười lăm tiêu chí, mỗi tiêu chí có trọng lượng tương đương trong điểm số tổng thể của chúng tôi. Đây là những:

  • Tỷ lệ phần trăm điện thoại di động bị nhiễm phần mềm độc hại - phần mềm được thiết kế để có được quyền truy cập trái phép, phá hủy hoặc phá vỡ hệ thống thiết bị
  • Tỷ lệ người dùng bị tấn công bởi Trojans ngân hàng di động - một chương trình độc hại được thiết kế để có quyền truy cập vào dữ liệu bí mật được xử lý thông qua hoặc lưu trữ trên các hệ thống ngân hàng
  • Tỷ lệ người dùng bị tấn công bởi Trojans ransomware di động - một chương trình độc hại được thiết kế để đánh cắp dữ liệu nhạy cảm và khóa người dùng ra khỏi thiết bị của họ cho đến khi họ trả tiền chuộc
  • Tỷ lệ người dùng bị tấn công bởi phần mềm độc hại ngân hàng (không phải di động)-một chương trình độc hại được thiết kế để có quyền truy cập vào dữ liệu bí mật được xử lý thông qua hoặc lưu trữ trên các hệ thống ngân hàng trên máy tính của một người
  • Tỷ lệ người dùng bị tấn công bởi ransomware Trojans (không phải di động)-một chương trình độc hại được thiết kế để đánh cắp dữ liệu nhạy cảm và khóa người dùng ra khỏi máy tính/tài khoản của họ cho đến khi họ trả tiền chuộc
  • Tỷ lệ phần trăm của máy tính bị nhiễm phần mềm độc hại (dựa trên web)-phần mềm được thiết kế để có được quyền truy cập trái phép vào, phá hủy hoặc phá vỡ hệ thống máy tính
  • Tỷ lệ phần trăm máy tính phải đối mặt với ít nhất một cuộc tấn công phần mềm độc hại địa phương-số lượng người dùng có phần mềm chống vi-rút được kích hoạt bởi một chương trình có khả năng độc hại trong giai đoạn báo cáo
  • Tỷ lệ người dùng di động bị tấn công qua các nguồn web-số lượng người dùng có phần mềm chống vi-rút được kích hoạt bởi một trang web có khả năng độc hại trong thời gian báo cáo
  • Tỷ lệ phần trăm của tất cả các cuộc tấn công telnet bằng quốc gia có nguồn gốc (dựa trên số lượng địa chỉ IP duy nhất của các thiết bị được sử dụng trong các cuộc tấn công) - một kỹ thuật được sử dụng bởi tội phạm mạng để khiến mọi người tải xuống nhiều loại phần mềm độc hại
  • Tỷ lệ người dùng bị tấn công bởi các loại tiền điện tử - phần mềm mà phát triển để tiếp quản máy tính của người dùng và sử dụng tài nguyên của nó để khai thác tiền tệ (không có sự cho phép của người dùng))
  • Tỷ lệ phần trăm của các cuộc tấn công dựa trên SSH của Quốc gia gốc (IoT)-một lực lượng vũ phu cố gắng loại bỏ công cụ giao tiếp shsh hoặc an toàn được sử dụng giữa hai máy tính
  • Tỷ lệ phần trăm email spam của các quốc gia có nguồn gốc - một tin nhắn không được yêu cầu được gửi với số lượng lớn qua email (từ quốc gia nó được gửi từ)
  • Tỷ lệ phần trăm của các quốc gia được nhắm mục tiêu bằng thư độc hại - một tin nhắn không được yêu cầu được gửi với số lượng lớn qua email (đến quốc gia mà nó được gửi đến)
  • Tỷ lệ phần trăm của máy tính bị tấn công bởi các nỗ lực lừa đảo - các email được gửi để thử và lôi kéo nạn nhân chia sẻ dữ liệu cá nhân, chẳng hạn như chi tiết thẻ tín dụng
  • Các quốc gia được chuẩn bị tốt nhất cho các cuộc tấn công mạng theo Chỉ số an ninh mạng toàn cầu của ITU

Giá trị hàng quý gần đây nhất có sẵn cho mỗi quốc gia và danh mục được thực hiện trừ khi các giá trị là dữ liệu hàng năm (được chỉ ra ở trên).

Đối với mỗi tiêu chí, quốc gia được đưa ra một điểm dựa trên nơi nó được xếp hạng giữa các quốc gia cấp cao nhất và cấp thấp nhất. Các quốc gia có điểm số an toàn mạng ít nhất đã được đưa ra 100 điểm, trong khi các quốc gia có điểm số an toàn không gian mạng nhất được phân bổ điểm bằng không. Tất cả các quốc gia ở giữa hai điểm này đều nhận được điểm số phần trăm, tùy thuộc vào nơi họ xếp hạng.

Tổng số điểm đã đạt được bằng cách tính trung bình của mỗi quốc gia điểm số trên mười lăm hạng mục. Tất cả các dữ liệu được sử dụng để tạo hệ thống xếp hạng này là mới nhất có sẵn và chúng tôi chỉ bao gồm các quốc gia nơi chúng tôi có thể bao gồm tất cả các điểm dữ liệu.

Các quốc gia nói thêm: Bolivia, Georgia, Haiti, Honduras, Israel, Kuwait, Panama, Qatar và Venezuela. Bolivia, Georgia, Haiti, Honduras, Israel, Kuwait, Panama, Qatar, and Venezuela.

Các quốc gia đã loại bỏ: Bosnia và Herzegovina, Cộng hòa Séc, Estonia, Jordan, Litva, Moldova, Serbia, Syria, Tanzania, Tunisia và Turkmenistan.Bosnia and Herzegovina, Czech Republic, Estonia, Jordan, Lithuania, Moldova, Serbia, Syria, Tanzania, Tunisia, and Turkmenistan.

Nhà nghiên cứu dữ liệu: George MoodyGeorge Moody

Nguồn

//securelist.com/

Chỉ số an ninh mạng toàn cầu 2020 (PDF)

Chủ đề