Vùng biển có chiều rộng 12 hải lý (1 hải lý = 1,852 km) tính đường cơ sở ra phía biển được gọi là gì?

QPTD -Thứ Bảy, 17/05/2014, 10:12 (GMT+7)

Các vùng biển của quốc gia theo Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982

Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) được thông qua tại thành phố Môn-tê-gô-bay của Gia-mai-ca vào ngày 10-12-1982. Công ước đã có hiệu lực và hiện nay có 161 thành viên tham gia, trong đó có các nước ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po và Bru-nây. Công ước quy định các quốc gia ven biển có các vùng biển là nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chiều rộng của các vùng biển này được tính từ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải của quốc gia ven biển. UNCLOS 1982 quy định rất rõ quy chế pháp lý của từng vùng biển.

1. Nội thủy

Điều 8 của UNCLOS 1982 quy định nội thủy là toàn bộ vùng nước tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải. Tại nội thủy, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lãnh thổ đất liền của mình.

UNCLOS được thông qua tại thành phố Môn-tê-gô-bay của Gia-mai-ca ngày 10-12-1982. Ảnh tư liệu

2. Lãnh hải

Lãnh hải là vùng biển nằm phía ngoài đường cơ sở. Theo luật biển quốc tế cho đến những năm 60 của thế kỷ 20, chiều rộng của lãnh hải của quốc gia ven biển chỉ có 3 hải lý (mỗi hải lý bằng 1.852m). Theo luật biển quốc tế hiện đại, cụ thể là Điều 3 của UNCLOS 1982 thì chiều rộng tối đa của lãnh hải là 12 hải lý.

Các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với lãnh hải của mình. Chủ quyền đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải là tuyệt đối. Chủ quyền đối với vùng trời phía trên lãnh hải cũng là tuyệt đối. Tuy nhiên, chủ quyền đối với vùng nước lãnh hải không được tuyệt đối như trong nội thủy bởi vì ở lãnh hải của quốc gia ven biển, tàu thuyền của các quốc gia khác được quyền qua lại không gây hại.

Quốc gia ven biển có quyền ban hành các quy định để kiểm soát và giám sát tàu thuyền nước ngoài thực hiện việc qua lại lãnh hải của mình trong một số vấn đề (an toàn hàng hải, điều phối giao thông đường biển; bảo vệ các thiết bị, công trình, hệ thống đảm bảo hàng hải; bảo vệ tuyến dây cáp và ống dẫn ở biển; bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; ngăn ngừa vi phạm pháp luật của quốc gia ven biển liên quan đến đánh bắt hải sản; bảo vệ môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; và ngăn ngừa các vi phạm về hải quan, thuế khóa, nhập cư, y tế) và quy định hành lang để tàu thuyền đi qua.

3. Vùng tiếp giáp lãnh hải

Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm ngoài và sát với lãnh hải. Chiều rộng của vùng tiếp giáp lãnh hải cũng không quá 12 hải lý. Quốc gia ven biển có quyền thi hành sự kiểm soát cần thiết nhằm ngăn ngừa việc vi phạm các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, nhập cư hay y tế trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình. Quốc gia ven biển cũng có quyền thi hành sự kiểm soát cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải để trừng trị việc vi phạm các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.

4. Vùng đặc quyền kinh tế

Đó là vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải và có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (vì lãnh hải 12 hải lý, nên thực chất vùng đặc quyền kinh tế có 188 hải lý). Đây là một chế định pháp lý hoàn toàn mới vì theo luật biển quốc tế cho đến những năm 50 của thế kỷ 20, các quốc gia ven biển không có vùng biển này.

Theo Điều 56 của UNCLOS 1982, trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật ở đó. Cho đến nay, tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế mà các quốc gia ven biển đang khai thác chủ yếu là tôm, cá.

Quốc gia ven biển cũng có quyền chủ quyền đối với các hoạt động khác như sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.

Quốc gia ven biển có quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình; nghiên cứu khoa học biển; bảo vệ và giữ gìn môi trường biển. UNCLOS 1982 quy định các quốc gia khác, bất kể là quốc gia có biển hay không có biển, được hưởng một số quyền nhất định ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển như quyền tự do hàng hải, quyền tự do hàng không.

5. Thềm lục địa

Thềm lục địa của quốc gia ven biển là phần đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển. Trên thực tế, rìa ngoài của thềm lục địa ở các khu vực có khác nhau: Có nơi hẹp, không đến 200 hải lý; nhưng có nơi rộng đến hàng trăm hải lý. Điều 76 của UNCLOS 1982 quy định rất rõ ràng. Thềm lục địa của quốc gia ven biển rộng tối thiểu 200 hải lý (kể cả khi thềm lục địa thực tế hẹp hơn 200 hải lý). Nếu thềm lục địa thực tế rộng hơn 200 hải lý thì quốc gia ven biển có thể mở rộng thềm lục địa của mình đến tối đa 350 hải lý hoặc không quá 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2.500m. Tuy nhiên, để mở rộng thềm lục địa quá 200 hải lý thì quốc gia ven biển liên quan phải trình cho Ủy ban Thềm lục địa của Liên hợp quốc báo cáo quốc gia kèm đầy đủ bằng chứng khoa học về địa chất và địa mạo của vùng đó. Sau đó, Ủy ban Thềm lục địa của Liên hợp quốc sẽ xem xét và ra khuyến nghị.

Điều 77 của UNCLOS 1982 quy định trong thềm lục địa của mình, các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của mình. Hiện nay, các nước ven biển đang khai thác dầu và khí để phục vụ phát triển đất nước. Sau này, khi các nguồn tài nguyên ở trên đất liền khan hiếm thì các quốc gia ven biển sẽ khai thác các tài nguyên khác ở thềm lục địa của mình. Cần lưu ý là quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc quyền ở chỗ nếu quốc gia đó không thăm dò, khai thác thì cũng không ai có quyền khai thác tại đây nếu không được sự đồng ý của quốc gia ven biển.

Điều cần nhấn mạnh là một mặt các quốc gia ven biển được hưởng các quyền tương ứng như đã nêu trên đối với các vùng biển của mình, nhưng mặt khác họ có nghĩa vụ tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển khác.

Nguồn: qdnd.vn

Trước hết muốn hiểu đúng về Đường biên giới trên biển theo đúng luật pháp quốc tế, chúng ta cần hiểu rõ một số khái niệm cơ bản về Các đường ranh giới trên biển:

Thứ nhất: 

Đường cơ sở: Đường cơ sở là cách nói ngắn của “đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải” . Đường cơ sở có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định ranh giới các vùng biển như vùng nội thủy (vùng biển nằm phía bên trong đường cơ sở), vùng lãnh hải (12 hải lý bên ngoài tính từ đường cơ sở), vùng tiếp giáp lãnh hải (24 hải lý tính từ đường cơ cở), vùng đặc quyền kinh tế (200 hải lý tính từ đường cơ sở)...

Có hai loại đường cơ sở. Bao gồm: Đường cơ sở thông thường là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển và Đường cơ sở thẳng là đường nối liền các điểm thích hợp và được áp dụng “ở nhưng nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm, hoặc nếu có một chuỗi các đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển”, hoặc ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và do những điều kiện tự nhiên khác. Đường cơ sở của Việt Nam gồm 11 điểm có toạ độ xác định. Hệ thống này thực tế là kiểu đường cơ sở thẳng và còn để ngỏ hai điểm: điểm 0 nằm trên giao điểm giữa đường thẳng nối liền đảo Thổ Chu (Việt Nam) và đảo Poulowai (Cămpuchia) và đường phân định biên giới giữa hai bên trong vùng nước lịch sử, và điểm kết thúc ở cửa vịnh Bắc bộ.

Thứ hai:

Vùng nội thủy được tính toán trên cơ sở đường cơ sở: Vùng nội thủy của một quốc gia có chủ quyền là toàn bộ vùng nước và đường thủy trong phần đất liền và được tính từ đường cơ sở trở vào. Theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, các quốc gia có biển được tự do trong việc áp dụng luật pháp của mình trong việc điều chỉnh bất kỳ việc sử dụng nào liên quan tới nội thủy cũng như các nguồn tài nguyên trong đó. Tàu thuyền nước ngoài không có quyền tự do đi qua vùng nội thủy kể cả không gây hại.

Thứ ba: 

Vùng lãnh hải. Lãnh hải là vùng biển rộng 12 hải lý (1 hải lý = 1,852 km) tính từ đường cơ sở, có chế độ pháp lý tương tự như lãnh thổ đất liền, ranh giới ngoài cùng của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển. Trong vùng lãnh hải, tàu thuyền của các quốc gia khác được hưởng quyền đi lại không gây hại và theo tuyến phân luồng giao thông biển của quốc gia ven biển.

Thứ tư: 

Vùng tiếp giáp lãnh hải, là vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải và tiếp giáp với lãnh hải rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải (24 hải lý tính từ đường cơ sở).

Thứ năm:

Vùng đặc quyền kinh tế, là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (188 hải lý từ ranh giới ngoài lãnh hải, 176 hải lý từ ranh giới ngoài của vùng tiếp giáp lãnh hải). Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước ven biển có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với mọi tài nguyên thiên nhiên và hoạt động kinh tế nhằm khai thác sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đó, có quyền tài phán đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học bảo vệ môi trường biển, xây dựng và lắp đặt những công trình và thiết bị nhân tạo. Các nước khác có quyền tự do bay, tự do hàng hải và đặt cáp và ống dẫn ngầm.

Thứ sáu:

Thềm lục địa, là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia ven biển cho đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc tới giới hạn 200 hải lý tính từ đường cơ sở khi bờ ngoài của rìa lục địa ở khoảng cách gần hơn. Tuy nhiên bề rộng tối đa của thềm lục địa tính theo bờ ngoài của rìa lục địa không vượt quá giới hạn 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý bên ngoài đường đẳng sâu 2.500 m.

- Sự khác nhau cơ bản giữa thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế là vùng thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia ven biển. Vùng đặc quyền kinh tế là chế định riêng biệt áp dụng cho cột nước phía trên đáy biển.

Ở góc độ khoa học đo đạc và bản đồ, tôi có thể phân tích sự đúng - sai rõ ràng về cái gọi là “Đường chín khúc” (hay còn gọi là đường lưỡi bò) mà phía Trung Quốc tuỳ tiện vẽ trên bản đồ.

Trước hết, đặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc tế (kể cả các loại ranh giới) là sự ổn định và dứt khoát trong khi đường chín khúc không liên tục vì là những đoạn đứt khúc được mô tả một cách tuỳ tiện, thiếu dút khoát (trước đây là 11 đoạn sau bỏ đi 2 đoạn) và không có tính ổn định vì không được xác định (không có mốc toạ độ kinh, vĩ độ và cũng không có điểm cơ sở).

Về Bản đồ học, mọi đối tượng địa lý thể hiện trên bản đồ phải được mô tả và thể hiện bằng toạ độ địa lý. Năm 2011, khi Cục bản đồ quốc gia Trung Quốc công bố trên trang website đường lưỡi bò, Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam đã có công hàm phản đối và đưa ra những lập luận khoa học trong bản đồ học gửi Đại sứ quán và Cục bản đồ quốc gia Trung Quốc. Ngay cả các học giả Trung Quốc cũng lúng túng khi giải thích về đường lưỡi bò, thậm chí nhiều học giả Trung Quốc không tin việc có đường lưỡi bò. Dư luận thế giới cũng không ủng hộ và phản đối Trung Quốc về Đường lưỡi bò nói riêng và cách hành xử nói chung của Trung Quốc trên Biển Đông.

Như trên tôi đã trình bày khái niệm cơ bản về Vùng đặc quyền kinh tế. Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển mở rộng từ các quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo, nằm bên ngoài và tiếp giáp với lãnh hải. Nó được đặt dưới chế độ pháp lý riêng được quy định trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển. Vùng đặc quyền kinh tế có chiều rộng 200 hải lý (khoảng 370,4 km) tính từ đường cơ sở. Trong khu vực này quốc gia ven biển có đặc quyền khai thác và sử dụng các tài nguyên biển nó là một trong các vùng mà quốc gia có quyền chủ quyền.

Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng biển đặc thù trong đó sự cân bằng về các quyền và quyền tài phán của mỗi quốc gia ven biển với các quyền tự do của các quốc gia khác. Theo đó các quốc gia ven biển có các quyền:

- Các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò khai thác , bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên của vùng nước trên đáy biển cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.

- Quyền tài phán về việc lắp đặt, sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và giữ gìn môi trường biển; các quyền và nghĩa vụ khác theo các điều khoản của công ước.

Trong vùng đặc quyền kinh tế các quốc gia khác đều được hưởng các quyền: tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do đặt ống dẫn ngầm và dây cáp.

Từ những cơ sở trên, việc Tổng công ty dầu khí hải dương Trung Quốc (CNOOC) công bố mời thầu 9 lô dầu khí hợp tác thăm dò khai thác trong năm 2012 với các công ty nước ngoài, rõ ràng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam. Hành động này của Trung Quốc là sai trái, trái với Công ước Liên hợp quốc 1982 về Luật Biển vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia của Việt Nam, làm phức tạp thêm tình hình và gây căng thẳng ở Biển Đông. Việc làm này cũng trái với “Thoả thuận về Những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên Biển” đã ký ngày 11-10-2011 giữa 2 nước CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa.

                                                                      Theo TN – MT

Video liên quan

Chủ đề