Vôi bột thuốc loại thuốc gì để phòng và trị bệnh cho tôm cá

Các nguyên tắc chính phòng bệnh trên cá, tôm
• Ao nuôi cá, tôm phải được xây dựng gần nguồn nước có chất lượng tốt để có thể thay nước bất cứ lúc nào cần thiết.

• Ao nuôi nên được cải tạo đúng theo các bước đã được trình bày ở phần trên.
• Cần chọn cá, tôm giống khỏe mạnh và chỉ nên mua cá giống ở những trại ương đáng tin cậy.
• Trước khi thả cá giống vào ao nuôi, phải làm cân bằng nhiệt độ bên trong bao vận chuyển cá, tôm với nhiệt độ nước trong ao nuôi.
• Phải diệt ký sinh trùng có thể bám theo cá giống đến ao nuôi bằng cách xử lý ao nuôi bằng Formol, nồng độ 25 - 30 ml/m3 , một ngày sau khi thả cá giống.
• Không được thả cá, tôm giống quá dày trong ao nuôi.
• Nên kiểm soát việc cho cá ăn, thức ăn phải có chất lượng cao; cho ăn theo tỷ lệ thích hợp với cỡ cá và số lượng cá, tôm trong ao nuôi.
• Cá, tôm giống cần được quan sát cẩn thận, mỗi biểu hiện bất thường hoặc triệu chứng bệnh ở cá phải được xử lý kịp thời.
Nếu mọi biện pháp phòng bệnh được tiến hành mà cá vẫn bị bệnh, thì phải sử dụng thuốc để điều trị. Trước khi điều trị bằng thuốc hoặc hóa chất phải xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh và cách thức điều trị thích hợp. Cần tính đến khả năng chịu đựng của cá đối với liều lượng thuốc và hóa chất dùng để trị. Ngoài ra phải tính toán cân xứng giá thành của thuốc với hiệu quả điều trị. Sau khi xem xét cẩn thận mọi khía cạnh, nếu quyết định điều trị thì chọn phương pháp điều trị thích hợp nhất.
Bảng dưới đây sẽ tóm tắt các phương pháp phòng và trị các loại bệnh khác nhau trên cá.
Một số qui định về việc sử dụng thuốc kháng sinh
- Luôn quản lý môi trường nuôi tốt

- Chỉ sử dụng thuốc kháng sinh khi thật cần thiết
- Chỉ sử dụng thuốc kháng sinh khi cá bị bệnh do vi khuẩn, thuốc kháng sinh không có tác dụng diệt vi - rút, nấm và nguyên sinh ñđộng vật
- Chỉ sử dụng thuốc kháng sinh nào mà vi khuẩn mẫn cảm
- Sử dụng thuốc kháng sinh mới và nguồn gốc đáng tin cậy

- Cẩn thận khi sử dụng thuốc kháng sinh vì chúng có thể gây nguy hiểm cho con người
- Trộn thuốc vào thức ăn hợp khẩu vị từng loại cá và không để lâu
- Sử dụng đúng liều lượng, đúng thời lượng
- Áp dụng đúng thời gian thuốc bị đào thải
Sử dụng thuốc và hoá chất sao cho không tồn lưu trong cá, tôm và không gây hại cho sức khoẻ con người khi sử dụng nó làm thức ăn. Đặc biệt, trường hợp nuôi cá tra, basa để xuất khẩu. Hiện nay, các nước nhập khẩu cá, tôm đều phải kiểm tra sự có mặt của các chất kháng sinh và hóa chất lưu tồn trong thịt cá, tôm. Khi phát hiện có các chất này, lô hàng đó sẽ bị loại bỏ.

Một số phương pháp trị bệnh cá, tôm
Khi phát hiện ao cá, tôm bị bệnh, phải tiến hành kiểm tra bệnh kịp thời, chẩn đoán bệnh chính xác. Tùy tình hình của bệnh cá và khả năng hiện có của cơ sở sản xuất mà chọn phương pháp trị bệnh thích hợp.

Tắm cá
Phương pháp này, có tác dụng trong điều trị các bệnh do vi khuẩn gây ra hoặc là do ngoại ký sinh (ở da và mang). Nhằm làm giảm lượng hóa chất sử dụng, người nuôi nên hạ thấp mực nước trong ao. Đồng thời cũng chuẩn bị một nguồn nước sạch để cung cấp. được thực hiện trong thao, bể xây, giai chứa cá hay các bể lót ni-lông bơm oxy. Trong bè có điều kiện chắn dòng nước chảy và điều kiện sục khí tốt. Phương pháp này thường để trị các bệnh ngoại ký sinh. Số lượng hóa chất được sử dụng thường có nồng độ cao đủ để diệt ký sinh trùng

nhưng không gây sốc trầm trọng cho cá. Việc trị liệu thường được xác định trong 15 phút đến 1 giờ với có sục khí tốt. Cần theo dõi liên tục phản ứng của cá để tránh hiện tượng quá liều (liều thuốc cao, thời gian tắm quá lâu). Khi thấy cá có dấu hiệu không bình thường như: cá muốn nhảy ra khỏi chậu, không phản ứng với tiếng động hay bơi cuộn lại thành đàn. Nhanh chóng chuyển cá từ dung dịch thuốc sang nước sạch hoặc vừa hút thuốc ra vừa cấp nước mới vào. Đối với các ao nuôi có diện tích lớn và nuôi cá trong bè có thể áp dụng một số cách và dụng cụ sau đây để tắm thuốc hoặc hoá chất cho cá.
Phun thuốc xuống ao.
Đối với ao ương, nuôi có diện tích lớn hoặc không có điều kiện gom cá lại nên sử dụng phương pháp phun thuốc xuống ao. Phương pháp này thường áp dụng để phòng và trị các bệnh ngoại ký sinh.
Phương pháp này có ưu điểm là ít tốn sức lao động, cá không bị sốc (do thao tác sang cá, chuyển cá) và cho kết qủa tốt. Điểm hạn chế của phương pháp này là tốn nhiều thuốc và cần tính chính xác thể tích nước ao nuôi để tránh cá bị ngộ độc thuốc.

Chế biến thuốc vào thức ăn.
Đối với bệnh do vi khuẩn, bệnh nội ký sinh biện pháp phòng trị có hiệu qủa là trộn thuốc vào thức ăn.

Các loại thuốc thường dùng: kháng sinh thường dùng Oxytetracyline, Norfloxacine, Erytromycine, Sulfamid... Có thể các chất bổ sung dinh dưỡng như vitamin, khóang premix, các men tiêu hóa.
Chú ý:
- Sử dụng biện pháp này, khi cá bệnh còn khả năng bắt mồi.

- Lượng thức ăn trộn thuốc nên ít hơn bình thường (1-2% trọng lượng cơ thể cá) và có thể bổ sung chất hấp dẫn cá ăn thức ăn (Dầu mực..), thức ăn cần có chất kết dính (bột gòn, bột mì, cám mịn, agar...).
Treo giỏ thuốc.
Đối với lồng bè và ao nuôi có nước ra vào thì có thể dùng túi vải đựng thuốc, hóa chất CuSO4, vôi bột, muối và cây cỏ thuốc nam (đã định liều lượng) treo ở đầu nguồn nước hoặc ở nơi sàn ăn chủ yếu để phòng bệnh cho cá vào đầu mùa dịch bệnh hoặc cá mới chớm bệnh.

Tiêm cá
Có thể tiêm vào cơ, xoang bụng hoặc mạch máu. Tuy nhiên phương pháp này thường chỉ được áp dụng trên các loài cá bố mẹ hoặc quý hiếm. Để việc trị liệu có hiệu quả nên căn cứ vào dấu hiệu lam sáng hoặc kết quả xét nghiệm để trọn loại thuốc cho phù hợp. Ngoài ra cần phải sử dụng thuốc đúng liều lượng. Tránh dùng liều thấp và liều liên tiếp nhau vì như vậy không những không mang lai hiệu quả chữa trị mà còn kích thích sự đề kháng của vật nuôi. Cũng cần phải chú ý đến việc quản lý tốt môi trường nuôi trong thời gian dùng thuốc.

Bơm thuốc
Thuốc bơm vào hầu qua miệng để tẩy sán ở cá bố mẹ ...
Bôi trực tiếp
Cá bị bệnh đốm đỏ mãn tính hay xây xát do đánh bắt có thể dùng cồn Iode bôi trực tiếp vào vết thương.

Hỗ trợ kỹ thuật : 098 777 36 45 ( Mr Quang )

Trong Nuôi trồng thủy sản, phòng ngừa và quản lý dịch bệnh là khâu rất quan trọng do dịch bệnh gây thiệt hại lớn về kinh tế. Bệnh động vật thủy sản nói chung và bệnh cá nói riêng có xảy ra hay không tùy thuộc vào nguyên nhân gây bệnh và điều kiện làm bệnh phát sinh. Nắm chắc được nguyên nhân và điều kiện phát sinh để có giải pháp phòng trị bệnh tích cực, hiệu quả cho cá nuôi.

Nguyên nhân gây bệnh

Nguyên nhân gây bệnh trên cá gồm các tác nhân sinh học như virus, vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng, các yếu tố môi trường không thuận lợi cho cá như hiện tượng thiếu ôxy hòa tan, nguồn nước bị ô nhiễm, hoặc chế độ dinh dưỡng cho cá nuôi không phù hợp về chất lượng và số lượng. Nhưng không phải cứ có mặt của tác nhân gây bệnh trong môi trường ao nuôi, thậm chí trong cơ thể vật nuôi là bệnh sẽ xảy ra. Sự phát bệnh còn phụ thuộc vào một số đặc điểm của chính tác nhân gây bệnh như số lượng và độc lực của các tác nhân gây bệnh và phụ thuộc vào con đường mà tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cá.

Giải pháp phòng bệnh

Bệnh trên cá có xảy ra hay không còn phụ thuộc sức đề kháng của cá nuôi và chất lượng môi trường nước nơi nuôi cá. Vậy giải pháp để phòng trừ bệnh cá nuôi nước ngọt có hiệu quả là giải pháp đồng bộ bao gồm:

Dinh dưỡng cân đối

Nâng cao sức đề kháng cho cá nuôi thông qua việc cung cấp đủ lượng thức ăn cần tính theo trọng lượng cá, chủng loại thức ăn phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng của cá ở từng giai đoạn nuôi khác nhau, chất lượng thức ăn tốt không bị nấm mốc, không chứa các độc tố, thành phần dinh dưỡng phù hợp theo lứa tuổi và theo loài nuôi. Tránh cho ăn quá mức gây dư thừa thức ăn làm tăng chi phí sản xuất và dễ gây ô nhiễm môi trường. Không nên sử dụng thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng thấp hơn so với nhu cầu dinh dưỡng của cá, chất lượng không đảm bảo làm cá gầy yếu, giảm sức đề kháng, kéo dài thời gian nuôi và dẫn đến năng suất thấp. Thức ăn đưa vào ao nuôi cần có nguồn gốc rõ ràng, tránh và hạn chế sử dụng thức ăn tươi sống trực tiếp vì thức ăn tươi sống có thể là nguồn chứa mầm bệnh.

Mật độ nuôi phù hợp

Căn cứ vào diện tích và cỡ cá thả để tính mật độ thả phù hợp. Không nên nuôi quá thưa làm lãng phí diện tích ao, lồng nuôi. Tránh mật độ nuôi quá dầy dẫn đến cạnh tranh về dinh dưỡng, dễ phát sinh và lây lan dịch bệnh khi nuôi.

Quản lý tốt môi trường nuôi nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cá nuôi sinh trưởng, phát triển tốt, nâng cao sức đề kháng tự nhiên với các tác nhân gây bệnh cho cá. Chính các yếu tố môi trường nuôi ổn định và thích hợp làm hạn chế sự tồn tại và phát triển của mầm bệnh trong nuôi cá.

Để kìm hãm sự phát triển của tác nhân gây bệnh trong hệ thống nuôi, trước mỗi vụ nuôi cần vệ sinh sạch, tát cạn, khử trùng ao nuôi sử dụng vôi bột, diệt tạp, khử trùng lưới, dụng cụ trong các dung dịch sát trùng. Bên cạnh đó, cần ngăn chặn sự xâm nhập, kìm hãm sự phát triển và lây lan của tác nhân gây bệnh vào hệ thống nuôi thông qua việc quản lý cộng đồng chung tay bảo vệ nguồn nước. Nước thải từ các ao nuôi cần được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường. Nước ao nuôi nhiễm bệnh cần được xử lý tránh thải trực tiếp ra kênh cấp nước chung dẫn đến lây lan dịch bệnh ra toàn vùng nuôi.

Cá giống trước khi đưa vào ao nuôi cần được kiểm tra và xác định là không nhiễm mầm bệnh nguy hiểm. Trong khu vực nuôi cá cần hạn chế chó, mèo và người không làm nhiệm vụ qua lại để tránh sự xâm nhập của các sinh vật mang mầm bệnh vào trong hệ thống nuôi.

Các dụng cụ sử dụng trong hệ thống nuôi cần được khử trùng thông qua giặt sạch, phơi nắng. Cần tránh dùng chung dụng cụ giữa các ô lồng, các ao nuôi có cá bệnh nếu không qua khử trùng. Đặc biệt, cần lưu ý hạn chế sự lây lan tác nhân gây bệnh thông qua người chăm sóc, hạn chế người ra vào trang trại, khách đến thăm quan nên áp dụng các biện pháp sử dụng bảo hộ lao động phù hợp và sát trùng.

Hàng ngày, thường xuyên quan sát hoạt động bơi, bắt mồi, màu sắc của cá để phát hiện sớm hiện tượng cá bị bệnh. Khi cá bị bệnh cần vớt ngay cá chết, loại cá bệnh nặng ra khỏi lồng/ao và xử lý số cá này bằng nhiệt như nấu chín làm thức ăn gia súc, tránh ném cá bệnh, cá chết ra ngoài lồng nuôi, tránh dùng cá chết bệnh cho các loài cá nuôi khác dùng tươi khi chưa xử lý nhiệt.

Trị bệnh khi cần thiết

Khi chẩn đoán xác định bệnh nhiễm khuẩn tiến hành dùng thuốc trộn thức ăn cho cá ăn, nhưng cần trộn đảo đều, thuốc cần được bổ sung tá dược bám dính vào thức ăn, hạn chế thuốc tan vào môi trường nước gây lãng phí và giảm hiệu quả. Khi điều trị cần cho cá ăn đủ liều lượng, muốn vậy cần ước tính chính xác khối lượng cá nuôi trong lồng/ao và đúng liệu trình kéo dài 5 – 7 ngày dùng thuốc. Thuốc điều trị thông qua đường tiêu hóa cần trộn thức ăn ngon, dễ tiêu, đặc biệt là thuốc phải hấp thu qua đường tiêu hóa. Một số loại kháng sinh hiện đang có tác dụng tốt trong điều trị bệnh nhiễm khuẩn cho cá nuôi lồng như Florphenicol; Sulfadiazine kết hợp với Trimethoprim; Doxycycline.

Đặc biệt là đối với cá nuôi lồng khi muốn khử trùng nước nuôi là tốn và kém hiệu quả do nước thường xuyên lưu thông, nên nếu cần diệt mầm bệnh bên ngoài cơ thể cần tiến hành dùng bạt chống thấm lót đáy lồng nuôi tạo bể giả, tính toán thể tích nước trong bể mới tạo, sau tiến hành pha hóa chất khử trùng rồi tắm cho cá. Với biện pháp này thường dùng với các loại hóa chất sát trùng hoặc tắm kháng sinh cho cá. Theo dõi diễn biến khi tắm thuốc, nếu thấy cá có hiện tượng khác thường cần tháo bạt khẩn cấp mở rộng để pha loãng nước thuốc.

Có thể thấy, bệnh cá gây thiệt hại nghiêm trọng đến vụ nuôi, do đó người nuôi cần chủ động thực hiện các biện pháp phòng bệnh tổng hợp từ khâu chọn giống tốt, chăm sóc và quản lý ao nuôi đúng quy trình kỹ thuật, đảm bảo ao nuôi an toàn sinh học giúp kiểm soát tốt dịch bệnh xảy ra trên đàn cá nuôi, giảm thiệt hại kinh tế, bảo đảm ATTP./.

PGS-TS Kim Văn Vạn – Trưởng khoa Thủy sản, Học viện NNVN

Nguồn: khuyennonghanoi.gov.vn

Video liên quan

Chủ đề