Truyền thuyết lịch sử là gì

Để hiểu rõ hơn thông tin chung nói về truyện lịch sử mang lại những đặc điểm và phong thái gì? Bạn cần phải biết: truyện lịch sử là gì? Sự xuất hiện của truyện lịch sử ra sao? Và truyện lịch sử mang lại những đặc trưng gì? Bạn cùng tìm hiểu kỹ lưỡng thông tin chia sẻ trong bài viết dưới đây.

Truyện lịch sử chính là một trong những loại tiểu thuyết, chuyện nói về các nhân vật và sự kiện có trong lịch sử. Và đồng thời, đó cũng là câu truyện, chứ không phải là truyện sử hay ký sự về lịch sử. Bởi chúng không thể kể lại sự kiện và nhân vật, mà còn tái hiện về cuộc sống của con người với cả không khí thời đại.

Bao gồm tất cả các chi tiết về tâm hồn, cá tính, trang phục, nhà ở, đồ dùng, bài ca, trò chơi,… Đặc biệt, miên tả chi tiết về đời sống sinh hoạt của các nhân vật trong lịch sử.

Những trải nghiệm của con người với tính cách, cá tính, dòng chảy của lịch sử. Khiến cho người đọc không chỉ đọc một câu chuyện, mà còn sống và thử nghiệm với thời đại lúc đó. 

Tìm hiểu về câu chuyện lịch sử

Truyện lịch sử còn cung cấp một bức tranh với tính bách khoa về thời đại mà nhân vật lịch sử của mình được sống. Chính vì thế, bên cạnh các nhân vật lịch sử, cần phải hư cấu thêm nhiều nhân vật khá đi kèm.

Bởi vậy, các tài liệu về sử học mà các nhà văn đã dựa vào thường chỉ nói về sự kiện chính, và nhân vật chính. Bản thân của sự kiện và nhân vật có trong sách sử cũng khá đơn giản, sơ lược thiếu các chi tiết, mỗi khi viết buộc các nhà văn phải thượng tượng và thêm thắt vào đó.

Bạn đã biết, truyện lịch sử chính là hiện tượng văn học khá đặc biệt. Chúng đặc biệt từ hai chữ “lịch sử” đã tạo ra. Bởi vậy lịch sử mặc dù không có nhiều thư như lịch sử phát minh, lịch sử một giai đoạn văn học, lịch sử về làng nghề.

Nhưng phần lớn là lịch sử, khai thác từ những vấn đề đã bị lãng quên, những sự kiện trong cuộc sống đã bị phai nhạt. Người ta đang muốn nghe lại tiếng nói của lịch sử, muốn sống lại bởi những thời khắc đau thương và hào hùng, với những thời khắc nhục nhã,..

Bởi vậy. Giai đoạn lịch sử vào đầu thế kỷ XX khi vận mệnh đất nước đang ở giai đoạn biến loạn lớn, tiểu thuyết của lịch sử đã dần nở rộ.

Câu chuyện lịch sử khá ý nghĩa và ứng dụng

Truyện lịch sử đóng một vai trò và sức mạnh khá to lớn. Đối với người Ba Lan thường nói: Khi đế quốc Nga đã đóng chiếm Ba Lan thì nước Ba Lan chỉ có thể tồn tại trong tiểu tuyết lịch sử của họ mà thôi.

Thực tế, lý thuyết về tiểu thuyết lịch sử cũng có rất nhiều, phần lớn đều phụ thuộc và cachs hiểu lịch sử và triết học lịch sử. Từ những quan niệm thực lục thời trung đại cho đến lịch sử tiến hóa, hay lịch sử của đấu tranh giai cấp tới lý thuyết lịch sử chủ nghĩa, quan niệm tới tiểu thuyết lịch sử cũng được thay đổi.

Đặc biệt nhất, từ trào lưu “tân chủ nghĩa lịch sử” đã được mở ra với một thời kỳ được gọi là “hậu lịch sử” nằm trong trào lưu hậu hiện đại. Tiếp đó, tất cả những thể loại về văn học đều được tái về cấu trúc, hoặc đã được xóa mờ ranh giới khá cứng nhắc.

Với tất cả các thể loại, hoặc được lắp ghép về các thể loại khác nhau, ngôn ngữ nghệ thuật cũng được thay đổi khác nhau. Với bối cảnh đó, chúng ta cũng nên nhìn về thể loại truyện lịch sử có trong các viễn cảnh khác nhau.

Vai trò chính trong sáng tại của nhà tiểu thuyết không phải là việc nhỏ và tiểu thuyết lịch sử không chỉ mang tính chất nhân vật và sự kiện lịch sử mà chúng còn có rất nhiều nhân vật, sự kiện hư cấu khác nhau.

Nhà văn không chỉ tưởng tượng mà còn đưa ra các sự kiện của suốt quá khứ trở về thời hiện đại của chúng, cho người đọc sống tại. Bởi vậy, những tác phẩm lịch sử, sử ký, sử biên niên mặc dù đã có từ thời xưa, nhưng tiểu thuyết lịch sử lại ra đời khá muộn.

Lịch sử bao giờ cũng là gia tài của trí thức, người mẹ của chân lý. Với những người băn khoăn về thời cuộc bao giờ cũng mong muốn trở về các trang sử cũ để tìm ra câu trả lời cho những vấn đề đó. Nhiệm vụ chính của truyện lịch sử chính là ngợi ca anh hùng, tuyên truyền các tấm gương chiến đấu, cổ vũ về tình thần hi sinh vì nghĩa lớn.

Tiểu thuyết nói về sự việc, nhân vật trong cốt truyện

Truyện đó cũng thường quan tâm tới các hành động chiến đấu ở bên ngoài, ít khi đi sâu vào phương diện tâm lý, nhân tính, vô thức và số phận.

Quan điểm chính của tiểu thuyết không tránh khỏi sự hep hỏi về phương diện ý thức hệ chính trị, những vấn đề phong phú của văn hóa dân tộc hầu như được bỏ qua. Bởi tính duy tâm, tính mê tín dị đoan, sự cổ hủ,….

Nội dung trong truyện lịch sử sẽ có nhiều cấp độ, có thể có sự kiện và nhân vật lịch sử nổi tiếng. Mà cũng có thể chỉ có sự kiện lịch sử, có thể được tái hiện như một bức tranh hiện thực, mà cũng có thể chỉ là ngụ ngôn. 

Thực tế, truyện lịch sử khá hấp dẫn và thu hút người đọc với những chân lý và sự kiện thời xưa mang lại những cội nguồn cho con người tìm về. Với những đặc điểm nổi bật dưới đây đã dẫn dắt về câu chuyện thu hút người đọc:

Đơn giản như sử Việt, thì người dạy sử Việt chưa bao giờ biết nhàm chán. Miễn sao người dạy, người nghiên cứu cần phải gia công tìm tòi, tìm hiểu, không được thỏa mãn với những điều mình đã có. Với sự hiểu biết luôn là vô cùng, cần phải làm sao cho các trang sử luôn đầm đìa cảm xúc.

Bên cạnh đó, lịch sử Việt Nam không bao giờ khô khan, nhàm chán như bạn đã cảm nhận. Đơn giản như, sự lớn lao của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, ba năm độc lập đầu tiên của cuộc hành trình ngàn năm đấu tranh tiến tới nền độc lập của dân tộc.

Lịch sử giống như chân lý, là những sự thật khá khách quan, tất cả các nhà viết sử hay nhiều tác giả truyện lịch sử. Với những cương vị xã hội chính trị cứng nhắc, xã hội trước mắt đang gặp nhiều vấn đề, bí lối hoặc có kẽ hở.

Trong khi đó, truyện lịch sự luôn là chân lý thông qua tâm hồn, cách hiểu. Đây là một trong những cách nhận thức hay cảm nhận về lịch sử, bởi tác giả có quyền để hư cấu, tô nhân vật được sâu sắc hơn. 

Đơn giản như những câu truyện của Nam Cao, ông đã đóng vai trò là nhà khoa học, nghiên cứu lịch sử tìm ra chân lý lịch sử. Ông đã đi tìm những lý lẽ sâu xa của hành động, banh xe về lịch sử,…. ông đã dựng ra câu truyện trong một khung cảnh sám – hối giữ các lời nguyền của nhân vật.

Những hình ảnh trong câu truyện được phác họa chi tiết

Thuật ngữ thường được các nhà văn hay sử dụng trong truyện lịch sử gồm có một số loại thuật ngữ phổ biến như dưới đây:

+ Bạo lực: Chính là sự mạnh đấu tranh về quân sự, chính trị,… nói về một giai cấp, tập đoàn khác nhằm giành chính quyền, đán áp hoặc lật đổ chính quyền.

+ Cách mạng dân chủ tư sản: chính là do giai cấp tư sản lãnh đạo, quần chúng về nhân dân là động lực chứng, nhằm đánh đổ về chế độ phong kiến đã lỗi thời. Khi cách mạng đã thành công, giai cấp tư sản lập ra chế độ cộng hòa, nắm quyền về thống trị thay cho giai cấp phong kiến.

+ Bãi công: Nói về việc tạm ngừng của một bộ phận hoặc toàn bộ công việc được sản xuất mang tính chất tập thể của công nhân, hay viên chức chống lại các nhà máy. Đây chính là hình thức đấu tranh của công dân chống lại giai cấp tư sản về kinh tế và tiến tới đấu tranh chính trị.

Nói chung, về nội dung lịch sử cũng cần nhìn thấy có rất nhiều cấp độ, có thể có các sự kiện và nhân vật về lịch sử khá nổi tiếng. Chúng có thể chỉ có sự kiện về lịch sử, có thể bị tái hiện như những bức tranh được thực hiện, mà cũng có thể chỉ là những câu chuyện ngụ ngôn. 

Đối với truyện lịch sử Việt Nam trong thời đương đại có rất nhiều loại. Bên cạnh các truyện lịch sử chính hiệu như: Bão táp triều trần, mạc đăng dung, hội thề, sông côn mùa lũ,…. được vết về các thời quá khứ.

Với những chia sẻ trên đây, bạn đã nắm bắt được thông tin chung nói về truyện lịch sử đúng không? Đồng thời ở đây, bạn cũng hiểu sâu hơn về loại truyện lịch sự đang ngày phổ biến, và giúp bạn đọc không bị nhàm chán. Chúc bạn có được những tập truyện li kỳ và lý thú nhé!!.

Nguồn: //bapcai.vn/

Truyền thuyết là tên gọi một thể loại văn học dân gian với nhiều quan niệm khác nhau về mặt phạm vi và đặc trưng thể loại. Nhóm tác giả Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên – Võ Quang Nhơn không xếp truyền thuyết vào hệ thống thể loại văn học dân gian, những truyền thuyết ở thời kì đầu thì xếp vào thần thoại, những truyền thuyết ở thời kì sau thì xếp vào cổ tích lịch sử.

Có quan niệm cho rằng các truyện kể dân gian có liên quan đến lịch sử, đồng thời có yếu tố hoang đường, tưởng tượng là truyền thuyết. Có cách hiểu hẹp hơn cho rằng truyền thuyết là những truyện dân gian có liên quan đến lịch sử, đồng thời có ảnh hưởng thế giới quan thần thoại. Theo quan điểm này, một số học giả đã xếp chung thần thoại và truyền thuyết trong nghiên cứu, không phân định đặc trưng nghệ thuật của thần thoại và truyền thuyết.

Có thể hiểu truyền thuyết là những truyện kể dân gian liên quan đến lịch sử được xây dựng bằng sắc màu huyền thoại. Đây là một thể loại tự sự dân gian manh nha từ cuối thời kì thần thoại và tiếp tục phát triển sau đó, với chức năng nhận thức, phản ánh, lí giải các nhân vật và sự kiện lịch sử có ảnh hưởng quan trọng với một thời kì, một địa phương hay một dân tộc bằng thế giới quan thần thoại.

Vào cuối thời kì thần thoại, truyền thuyết bắt đầu những thể nghiệm. Truyện kể dân gian ra đời trong giai đoạn này vì thế rất khó để phân loại một cách chính xác, rạch ròi. Truyện “Lạc Long Quân và Âu Cơ” có quan niệm xếp vào truyền thuyết giai đoạn đầu. Điều này có lí khi xét đến nội dung lịch sử ra đời của dân tộc. Tuy nhiên, bản thân sự hình thành dân tộc được thể hiện trong truyện vẫn chưa thực là một sự kiện lịch sử. Vì vậy, chúng tôi vẫn dành truyện kể này cho thể loại thần thoại.

Truyền thuyết sau giai đoạn manh nha, còn nhập nhằng với thời kì thần thoại, đã phát triển độc lập qua các thời kì Âu Lạc – Bắc thuộc, các thế kỉ phong kiến tự chủ và các thế kỉ phong kiến suy yếu, nội chiến và chống ngoại xâm. Đó là truyền thuyết lịch sử. Càng về sau, yếu tố thần kì, huyền ảo dần nhường chỗ cho yếu tố lịch sử, truyền thuyết tiệm cận cổ tích, truyện kể dân gian tiếp tục đời sống của mình. Bên cạnh bộ phận truyền thuyết lịch sử, hệ thống truyền thuyết Việt Nam còn có bộ phận truyền thuyết anh hùng và bộ phận truyền thuyết văn hóa.

1/ Đặc trưng nội dung

Bộ phận truyền thuyết lịch sử có thể khảo sát theo các thời kì lịch sử. Trước hết, phải kể đến bộ phận truyền thuyết thời kì Âu Lạc – Bắc thuộc. Nước Âu Lạc tồn tại khoảng nửa thế kỉ (229 – 179 TCN). Từng có lúc thời kì này được gắn với thời Văn Lang thành thời kì Văn Lang – Âu Lạc. Đây xem như giai đoạn chuyển tiếp giữa thời  kì Văn Lang và thời kì Bắc thuộc.

Nước Âu Lạc được thành lập từ thế kỉ III TCN, khi kết thúc thời kì vua Hùng, đến khi Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng là mười hai thế kỉ, một giai đoạn phát triển mạnh mẽ phong trào chống ngoại xâm. Truyền thuyết “An Dương Vương” đã xuất hiện trong thời kì này, mà một trong những cơ sở đầu tiên là cuộc xung đột Hùng – Thục.

Sau khi nước Âu Lạc rơi vào tay Triệu Đà, truyền thuyết này đã được nhào nặn, bổ sung tình tiết Mị Châu – Trọng Thủy nhằm giải thích nguyên nhân họa mất nước lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc.

Sau đó, cốt truyện được ổn định trong bản ghi Thiên nam ngữ lục. Xung đột trong những mối quan hệ gia đình, quan hệ xã hội thể hiện xu hướng cổ tích hóa của truyền thuyết này, và tên gọi Mị Châu – Trọng Thủy bắt nguồn từ đó.

Sự cường điệu hóa yếu tố cổ tích làm lu mờ bản chất truyền thuyết của truyện, làm sai lệch ý nghĩa thực sự của truyền thuyết này. Nàng Mị Châu chết với lời khấn nguyện tẩy sạch mối nhục thù, thể hiện khát vọng được minh oan, không phải mong ước kiếp sau được sum họp với kẻ thù đã lừa dối nàng. Nàng là nạn nhân trong vở kịch mà kẻ thù dựng lên để lừa dối vua cha và nàng, dẫn đến họa mất nước. Nàng chết đi, máu hóa thành châu ngọc, chứng minh cho lòng trong trắng của nàng, một nạn nhân, không phải một tên phản nghịch bán nước.

Sự nảy sinh và phát triển, sự lan truyền tương đối rộng rãi và sức sống lâu bền của truyền thuyết trong một giai đoạn đấu tranh gian khổ trong lịch sử dân tộc là một hiện tượng thú vị.

Từ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 – 43) đến chiến thắng Bạch Đằng năm 938, không cuộc khởi nghĩa nào không được nhân dân dựng tượng đài tưởng niệm bằng truyền thuyết lịch sử. Hình thức lễ nghi cúng bái, thờ tự gắn liền với truyền thuyết lịch sử, nhằm thuyết giải, chứng minh, củng cố niềm tin cho nhân dân. Suốt thời kì Bắc thuộc, làng nước vẫn mãi của người Việt; vì thế, sự thờ cúng các anh hùng dân tộc, sự truyền tụng các truyền thuyết ca ngợi các vị anh hùng ấy đã thể hiện khí phách dân tộc trong cuộc chiến đấu bài trừ Hán tộc và văn hóa Hán.

Thứ hai là bộ phận truyền thuyết thời kì quốc gia phong kiến tự chủ, thời kì của chế độ phong kiến biết lấy dân làm gốc. Chính chủ trương sáng suốt đó đã tạo nên sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc chống lại những âm mưu xâm lược.

Đặc điểm ấy của giai đoạn lịch sử này đã in dấu ấn đậm nét vào nội dung và cơ cấu của truyền thuyết lịch sử. Truyền thuyết xưa kia ca ngợi các bậc anh hùng dân tộc như Lí Bí, Ngô Quyền… thì những truyền thuyết thời Đại Việt ca ngợi những triều đại với những cuộc chiến tranh vệ quốc ác liệt hào hùng. Chân dung các vị thống soái kết tinh cho ý chí, trí tuệ của dân tộc và nhân dân trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa có thể kể ra như: Đinh Bộ Lĩnh, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Toản, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Tuệ Tĩnh, Chu Văn An… Truyền thuyết giai đoạn này giàu tính hiện thực hơn so với giai đoạn trước.

Giai đoạn này có chính sử và văn học nghệ thuật với tư cách hình thức sản sinh tư tưởng chuyên môn hóa, nằm trong sự kiểm soát chặt chẽ của giai cấp thống trị phong kiến dân tộc. Thuyền thuyết dân gian góp phần cung cấp dữ liệu phục hồi những cứ liệu bị giặc xuyên tạc trong thời kì nước ta chịu họa xâm lăng.

Trong xã hội Việt Nam xuất hiện hai bức tranh về lịch sử: chính sử và tự sự lịch sử dân gian. Truyền thuyết lịch sử dân gian đề cao những người xuất thân bình dân, như anh chăn trâu cắt cỏ, đan sọt đánh cá… (Đinh Bộ Lĩnh, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu…). Ngoài ra, sử dân gian còn hư cấu, thần thánh hóa sự ra đời, xuất thân của những vị vua có xuất thân không rõ ràng như Lí Công Uẩn, Lê Thánh Tôn… Nhân dân không phiền hà gì về điều này, vì họ không quan tâm xuất thân vị vua bằng mối quan hệ của ông đối với dân và với triều thần. Và sử sách theo vậy mà ca ngợi công lao của họ đối với vương triều, đối với giang sơn. Còn tiểu sử ấu thơ của họ cũng không phải chủ đề chính được xem xét trong chính sử.

Nhìn chung, truyền thuyết dân gian vẫn lấy cảm hứng từ tình yêu nước thương dân, của lòng ngưỡng mộ các bậc tài đức của dân của nước, không chú ý đề cao vương quyền và thần quyền.

Thứ ba là bộ phận truyền thuyết thời kì quốc gia phong kiến suy yếu, nội chiến và chống ngoại xâm. Từ thế kỉ thứ XVI – XVII, chế độ phong kiến suy yếu dần dưới thời Lê, Lê – Trịnh và triều Nguyễn. Các sinh hoạt văn hóa dân gian đến đây gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của phong trào nông dân, văn học dân tộc bước vào thời kì hoàng kim của nó.

Truyền thuyết vẫn tiếp tục sứ mạng lịch sử của nó. Cảm hứng chủ đạo của truyền thuyết là: nhân dân đấu tranh chống phong kiến, nêu cao tinh thần yêu nước. Truyền thuyết còn tô đậm tính chất nhân dân, vai trò của nhân dân trong việc quyết định thành bại của các cuộc khởi nghĩa của các lãnh tụ, trong khi đó chính sử thản nhiên biến tấu công lao trăm họ thành hồng phúc của một nhà.

Tiêu biểu trong giai đoạn này là truyện kể về những người anh hùng nông dân, tiêu biểu như: chàng Lía, Cố Bu, vợ Ba Cai Vàng. Truyện không có kết thúc mang tính hiển linh khi người anh hùng tựu nghĩa. Sự xuất hiện nhóm truyền thuyết lịch sử về anh hùng nông dân đánh dấu chuyển biến quan trọng trong cảm quan sáng tác của nhân dân. Khi xây dựng nhân vật người anh hùng nông dân, dân gian đã gửi gắm vào đó quan điểm của người lao động. Những người anh hùng này mang đầy đủ ưu nhược điểm của một nông dân bình thường, đồng thời chứa thêm sự phi thường mà nhân dân mơ ước.

Bên cạnh chủ đề chính là sự tự khẳng định, tự nhận thức về mình, truyền thuyết lịch sử chú ý đến kẻ thù xâm lược, phản ánh và nhận thức về chúng nhằm tìm phương án đối phó.

Trong truyền thuyết, bên cạnh những nhân vật chính diện, còn có những nhân vật phản diện, những tên xâm lược phương Bắc như Triệu Đà, Trọng Thủy, Tô Định, Mã Viện, Sĩ Nhiếp, Cao Biền… Truyền thuyết còn nhiều mẫu truyện về Cao Biền (một tên võ quan đô hộ nhà Đường, kiêm thầy địa lí, thầy phù thủy thời Bắc thuộc) như “Cao Biền yểm long mạch”, “Cao Biền dậy non”, truyện kể Cao Biền bị thần Tản Viên nhổ nước bọt vào mặt hay bị thần sông Tô Lịch phá phép thuật… Câu thành ngữ “lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” thể hiện sự chế giễu dành cho tên phù thủy này, xuất phát từ việc y “ủ quân” thất bại.

Bộ phận truyền thuyết kể về nhân vật anh hùng không tách rời khỏi bộ phận truyền thuyết lịch sử. Bởi vì, chỉ trong hoàn cảnh lịch sử thì nhân vật anh hùng mới xuất hiện, hành động và trưởng thành. Chỉ khác là, truyền thuyết kể về nhân vật anh hùng xây dựng cốt truyện xung quanh cuộc đời và tài năng, tính cách nhân vật, trong khi truyền thuyết lịch sử được xây dựng theo bối cảnh, tình huống và sự chuyển biến của các sự kiện.

Sau khi Cổ Loa thất thủ, nước Âu Lạc rơi vào tay Triệu Đà mười thế kỉ dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc. Nhân dân ta không ngừng chiến đấu giành lại tự do. Sự phản kháng của nhân dân đối với bọn xâm lược phương Bắc thể hiện sớm nhất ở các truyền thuyết về thần núi Tản Viên, thần sông Tô Lịch, thần chính khí Long Đỗ.

Qua các thời kì lịch sử, nhiều anh hùng dân tộc lãnh đạo nhân dân chống ngoại bang. Nhân dân đã kể chuyện về các nhân vật và sự kiện lịch sử đó như: Hai Bà  Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi… Nhân vật anh hùng trong truyền thuyết giống nhau ở lòng yêu nước, thương dân, chí căm thù giặc và quyết tâm chiến đấu giành lại độc lập dân tộc. Họ được mến mộ, hưởng ứng, suy tôn. Các câu chuyện đều kết thúc bằng chiến thắng; nếu mất mát, nhân dân giải thích bằng nguyên nhân khách quan và tiễn đưa họ về cõi bất tử.

Bộ phận truyền thuyết văn hóa phản ánh phong tục, tập quán, các loại cây trái, món ăn. Đồng thời đó còn là những câu chuyện kể về các danh nhân văn hóa dân tộc như “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”, “Đầm Mực” (về Chu Văn An), “Trạng Bùng” (về Phùng Khắc Khoan)…

2/ Đặc trưng nghệ thuật

Về nhân vật, khác với thần thoại, nhân vật truyền thuyết chủ yếu là người và nhân vật bán thần. Nhân vật bán thần chỉ tồn tại ở những truyền thuyết thời kì đầu, còn bị che phủ bởi màng sương thần thoại dày đặc như “Sơn Tinh, Thủy Tinh” hay “Thánh Gióng”. Về sau, hầu hết nhân vật truyền thuyết đều là người, đều là nhân vật lịch sử, có thời điểm sinh thành và kết thúc, có lai lịch, có diễn biến cuộc đời gắn với các sự kiện lịch sử.

3/ Về không – thời gian truyền thuyết

Thời gian truyền thuyết là thời gian lịch sử, diễn ra theo thời đại, triều đại, được xác định cụ thể hơn so với thời gian thần thoại. Câu chuyện có thể diễn ra trong nhiều triều đại, có thể trong một triều đại. Truyện “An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy” diễn ra từ lúc nhà vua xây thành cho đến khi thất bại; truyện “Thánh Gióng” kể từ lúc đất nước có giặc ngoại xâm cho đến lúc giặc tan. Tuy nhiên, thời gian truyền thuyết không cụ thể đến từng thời điểm, bởi vì dù sao thì truyền thuyết cũng là truyện kể, hơn nữa, lại là truyện kể dân gian. Yếu tố hư cấu và bất biến đã chi phối đến thời gian nghệ thuật. Một phương diện khác có thể góp phần minh định thời gian nghệ thuật trong truyền thuyết là cuộc đời nhân vật. Nhân vật truyền thuyết là cuộc đời có lai lịch, có bắt đầu, có kết thúc, mặc dù, cũng như hệ quy chiếu thời gian chung, thời điểm là không xác định.

Không gian truyền thuyết là không gian đời thường, không gian chiến trường, không gian xã hội. Không gian truyền thuyết gắn liền với các địa danh cụ thể như làng Phù Đổng, làng Quế Võ, núi Sóc, Phong Khê, núi Thất Diệu, Dạ Sơn, Lam Sơn, hồ Tả Vọng… Những địa danh, di tích xuất hiện trong truyền thuyết thường gắn với các sự kiện lịch sử và cuộc đời của nhân vật.

4/ Một vài đặc điểm nghệ thuật nổi bật của truyền thuyết:

Tính cụ thể xác thực: một đặc điểm nghệ thuật nổi bật của truyền thuyết nhằm phản ánh sự thật lịch sử. Trong truyền thuyết, những danh từ riêng chỉ tên người, tên đất, tên thời kì lịch sử rất được coi trọng, như An Dương Vương, Mị Châu… vì những tên này gắn liền với những con người thật, vùng đất thật. Đặc điểm này góp phần vào việc dựng lại không khí lịch sử của truyện, thực hiện chức năng cơ bản của thể loại.

Tính văn – sử: Sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố này góp phần tạo nên tính xác thực về thời gian – không gian lịch sử cụ thể xảy ra sự kiện lịch sử, đồng thời đảm bảo thông tin được truyền tải một cách hiệu quả, nghệ thuật đến công chúng.

Yếu tố huyền thoại trong truyền thuyết là cách thần thánh hóa hình tượng, bất tử hóa cái chết của những bậc anh hùng mà nhân yêu mến, ngưỡng vọng. Theo truyền thuyết, An Dương Vương nhảy xuống biển tự tử, nhưng nhân dân muốn tưởng nhớ công lao của ông, đã để ông cầm sừng tê rẽ nước về sống tại thủy cung, trường sinh bất tử cùng các vị thần. Bà Triệu lên núi Tùng Sơn chết thì hồn bà hòa quyện cùng thanh gươm quý thành ánh hào quang sáng chói bay về trời.

Việc thờ tự, lập miếu thờ, lễ nghi cúng kính thường niên các bậc anh hùng dân tộc cũng không nằm ngoài mục đích tưởng nhớ, ghi công ân đức của các vị ấy đối với con cháu ngàn đời. Nhân dân tin rằng các bậc thánh nhân, các bậc anh hùng thỉnh thoảng vẫn trở về giúp đỡ cháu con vượt qua những lúc khó khăn ngặt nghèo nhất.

Nhân dân gởi gắm một thông điệp có ý nghĩa nhân văn sâu sắc về trách nhiệm, nghĩa vụ đối với quốc gia của tất thảy con cháu mọi đời, phải cùng đoàn kết bảo vệ sơn hà mà máu xương ngàn đời cha ông tô thấm. Và cũng từ đó, ý nghĩa hình tượng nhân vật trong truyền thuyết trở nên thiêng liêng, vĩnh hằng.

Truyền thuyết là một thể loại có sự gắn kết gần gũi với các sự kiện và nhân vật lịch sử. Đó là pho sử dân gian. Nó được kể lại bằng cảm quan dân gian, được phán xét bằng triết lí dân gian. Truyền thuyết được xác định là đời sau thần thoại, song, vẫn tồn tại song hành cùng nhau và có những điểm giao mờ nhòe giữa hai thể loại là chứng hiện cho con đường tư duy của con người.

TS: Đàm Hiếu Nghĩa 

XEM THÊM: Thần Thoại Trong Văn Học Dân Gian

Video liên quan

Chủ đề