Ngày 3/11, tại Hà Nội, Bộ GD&ĐT phối hợp với các cơ sở nước ngoài tổ chức Diễn đàn Giáo dục đại học Việt Nam – Châu Âu với chủ đề về quốc tế hóa giáo dục Đại học: Cơ hội và thách thức. Show Diễn đàn Giáo dục đại học Việt Nam – Châu Âu và Triển lãm giáo dục đại học Châu Âu là sự thể hiện cam kết thúc đẩy phát triển quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực châu Âu với những nền giáo dục đại học hàng đầu thế giới. Điều này tạo sân chơi cho các trường đại học Việt Nam và châu Âu xây dựng và phát triển chương trình hợp tác, đóng góp chung vào việc tăng cường hội nhập quốc tế của giáo dục đại học Việt Nam. Đồng thời kêu gọi và thúc đẩy xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực giáo dục trong bối cảnh nguồn vốn vay ODA sẽ chấm dứt vào năm 2018, và các viện trợ song phương cũng như nguồn học bổng của Chính phủ các nước cấp ngày càng hạn hẹp.
Tham gia Diễn đàn có khoảng 80 cơ sở đào tạo đại học trong và ngoài nước. Tại diễn đàn này, các bên sẽ chia sẻ, báo cáo một số kinh nghiệm phục vụ cho quá trình hội nhập quốc tế của các cơ sở đào tạo đại học châu Âu cũng như của Việt Nam. Phát biểu tại diễn đàn, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bùi Văn Ga cho biết, các nước Châu Âu nhiều năm qua đã cấp học bổng cho công dân Việt Nam đi du học sau đại học. Chính phủ Việt Nam cũng gửi nghiên cứu sinh Việt Nam sang học bằng nguồn học bổng của Chính phủ Việt Nam như các đề án 322, 911 và 599. Tuy nhiên, Thứ trưởng Ga cho rằng, sự hợp tác giữa Việt Nam và các nước Châu Âu còn khiêm tốn so với tiềm năng của cả 2 bên, các trường đại học Việt Nam, sinh viên Việt Nam chưa có nhiều thông tin về hệ thống các trường đại học của các nước Châu Âu. Nhiều trường đại học danh tiếng, xếp thứ hạng rất cao ở các nước Châu Âu mà sinh viên của rất nhiều nước trên thế giới mong muốn được đến học tập, nghiên cứu, trong đó có sinh viên Việt Nam. Thứ trưởng Bùi Văn Ga nhấn mạnh, diễn đàn giáo dục này là sự cố gắng của Bộ GD&ĐT nhằm tạo cơ hội cho các trường, các nhà quản lý giáo dục, giảng viên và nhà khoa học kết nối với nhau, chia sẻ kinh nghiệm về quản lý, giảng dạy và nghiên cứu khoa học; Và thăm dò các cơ hội thúc đẩy hợp tác song phương và đa phương để phát triển các chương trình liên kết đào tạo, các dự hợp tác nghiên cứu khoa học, trao đổi giảng viên, sinh viên và nghiên cứu viên, trao đổi học bổng và tiến tới ký kết các văn bản thỏa thuận hợp tác. Ông Tom Corrie, Phó trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam cho biết: “Chúng tôi đang hỗ trợ 18 dự án nghiên cứu tại Việt Nam. Đây là sự hợp tác giữa các nước của EU với các trường đại học hàng đầu của Việt Nam bao gồm nhiều lĩnh vực như năng lượng, nông nghiệp... ngoài ra, chúng tôi cũng đang hỗ trợ các nước ASEAN khác trong việc tăng cường quản trị giáo dục đại học…” Tại diễn đàn, nhiều đại biểu quốc tế mong muốn Việt Nam cần nâng cao năng lực tiếng Anh cho sinh viên Việt Nam để có nhiều cơ hội nhận học bổng. Theo đó, Việt Nam cần đào tạo năng lực tiếng Anh cho học sinh trước khi bước vào trường đại học bởi tiếng Anh quan trọng khi tham gia học tập ở môi trường đại học. Phát biểu tại Diễn đàn về ứng dụng ICT trong quốc tế hóa giáo dục đại học, bà Zenda Tan – Giám đốc phát triển thị trường của ICDL Châu Á chỉ ra rằng nhiều người tự cho mình đã có đủ các kỹ năng kỹ thuật số cần thiết cho công việc cũng như cuộc sống. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy rất nhiều người hiện nay không có đủ kỹ năng công nghệ thông tin để làm việc hiệu quả. Họ phải tốn rất nhiều thời gian để để giải quyết các vấn đề về máy tính do thiếu hụt các kỹ năng căn bản. Bà Zen cho rằng, trong xu thế quốc tế hóa hiện nay, lực lượng lao động giữa các quốc gia ngày càng trở nên kết nối, họ có thể di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác nên họ cần phải có trình độ công nghệ thông tin đáp ứng chuẩn toàn cầu. Tại đây, đại diện ICDL những trình bày về Hệ thống sát hạch ICDL như là một trong số các chuẩn tin học phổ biến trên thế giới. Chứng chỉ này không chỉ đáp ứng các nhu cầu về tuyển dụng, làm việc tại Việt Nam mà còn giúp người lao động dễ dàng thích nghi với môi trường việc làm quốc tế, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập Cộng đồng kinh tế quốc tế. Thùy Linh
Cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư đã được nhắc đến rất nhiều trong thời gian qua, đây là cuộc cách mạng mới nhất trong lĩnh vực công nghiệp. Tuy nhiên, cuộc cách mạng này cũng có những tác động không thể tránh khỏi với những lĩnh vực khác, trong đó có lĩnh vực giáo dục. Diễn đàn kinh tế thế giới đã mô tả cách mà cuộc CMCN lần thứ tư “định hình tương lai của giáo dục, giới tính và việc làm” [7], nhấn mạnh rằng, do sự tác động của CMCN lần thứ tư mà cần “đẩy mạnh việc đào tạo lại lực lượng lao động” [6]. Hobsbawm đã đánh giá rằng “CMCN không chỉ đơn thuần là sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mà sự tăng trưởng kinh tế có được thông qua chuyển đổi kinh tế và xã hội [1]. Vậy CMCN sẽ tác động đến giáo dục đại học (GDĐH) như thế nào? Những thách thức nào mà GDĐH sẽ phải đối mặt trong kỷ nguyên CMCN lần thứ tư? 2. Khái quát về cách mạng công nghiệp lần thứ tưThuật ngữ CMCN lần thứ tư bắt nguồn từ thuật ngữ “Công nghiệp 4.0”, lần đầu tiên xuất hiện tại Hội chợ Công nghệ Hanover của Cộng hòa Liên bang Đức năm 2011. Sau đó, khái niệm này được sử dụng để đặt tên cho một chương trình hỗ trợ phát triển công nghệ cao của Chính phủ Đức. Năm 2016, Diễn đàn kinh tế thế giới tổ chức một cuộc Hội thảo tại Davos, Thụy Sỹ với chủ đề “Làm chủ cuộc CMCN lần thứ tư”. Kể từ đó, thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi cho đến nay. Cuộc CMCN lần thứ tư được nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học [5]. Cuộc CMCN lần thứ tư được mô tả là kết quả của sự tích hợp và hiệu ứng kép của nhiều “công nghệ theo cấp số nhân”, chẳng hạn như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ sinh học và vật liệu nano [4]. Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN lần thứ tư là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet kết nối vạn vật - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). Trong lĩnh vực công nghệ sinh học, CNCM lần thứ tư tập trung vào nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong nông nghiệp, thủy sản, y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu. Cuối cùng là lĩnh vực vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions,…) và công nghệ nano. Bản chất của cuộc CMCN lần thứ tư là phương thức sản xuất thông minh dựa trên trí tuệ nhân tạo, công nghệ số, để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất. Những đột phá trong thời gian gần đây như điện toán đám mây, thiết bị di động thông minh, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn,… đang tạo điều kiện cho quá trình sản xuất thông minh diễn ra ngày càng rộng rãi với hệ thống máy móc tự động kết nối, tự tổ chức và quản lý. Nhờ đó, quá trình tương tác diễn ra nhanh chóng, thuận tiện và chính xác hơn, cho phép con người có thể kiểm soát mọi thứ từ xa, không giới hạn về không gian và thời gian. Điểm đặc biệt là cuộc CMCN lần thứ tư đang tiến triển theo một hàm số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính. Công nghệ theo cấp số nhân quen thuộc nhất là công suất máy tính tăng theo cấp số nhân về độ phức tạp và sức mạnh tính toán, trong khi đó giảm chi phí tương đương cho nhà sản xuất và người tiêu dùng, tuân theo định luật Moore. CMCN lần thứ tư đã, đang và sẽ đưa đến quá trình sản xuất với máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất, hệ thống quản trị thông minh; tạo ra nền công nghiệp, nông nghiệp, thương mại - dịch vụ thông minh. Đây là động lực quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. CMCN lần thứ tư sẽ tác động mạnh mẽ đến tình hình kinh tế - xã hội, dẫn đến việc thay đổi phương thức và lực lượng sản xuất của xã hội. 3. Những thách thức của giáo dục đại học trong kỷ nguyên CMCN lần thứ tưSchwab đánh giá cuộc CMCN lần thứ tư đang ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực, nền kinh tế, các ngành công nghiệp và Chính phủ, thậm chí là những ý tưởng đầy thử thách về ý nghĩa của con người [5]. CMCN lần thứ tư cũng tạo động lực cho sự thay đổi lớn trong giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng, vì yêu cầu về nguồn nhân lực đủ trình độ, kỹ năng, đáp ứng được trong kỷ nguyên cuộc CMCN lần thứ tư. Trong tương lai của những thay đổi xã hội chưa từng có, giáo dục là yếu tố quan trọng để có thể vượt qua được những thách thức của kỷ nguyên mới. Với thị trường việc làm tự động hóa, số hóa và nhanh chóng biến động, các hệ thống giáo dục đại học ngày nay đang nhanh chóng trở nên không tương thích với tương lai mà chúng ta đang hướng tới. Theo quan điểm của Østergaard và Nordlund, ít nhất có bốn thách thức mà GDĐH đang và sẽ phải đối mặt trong kỷ nguyên CMCN lần thứ tư [3]. Một là, nhu cầu học tập suốt đời ngày càng tăng trong một thế giới phi tuyến tính. Như trên đã phân tích, điểm nổi bật của cuộc CMCN lần thứ tư là tốc độ phát triển theo cấp số nhân và thay đổi nhanh chóng, chính vì vậy, người lao động cần liên tục học tập và cập nhật các kỹ năng của mình để có thể đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của công việc trong thời kỳ mới. Tư duy lạc hậu cho rằng mọi người được giáo dục sớm để sẵn sàng làm việc suốt đời sẽ không còn phù hợp. Ý tưởng học tập suốt đời không có gì mới. Nhưng trong một thế giới đã trở nên phi tuyến tính hơn nhiều, các điều kiện để học tập suốt đời đã thay đổi đáng kể từ khi khái niệm này lần đầu tiên được đưa ra. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, cơ hội để các cá nhân tiếp cận các cơ hội học tập - theo những cách khác nhau, cho các mục đích khác nhau và ở các giai đoạn nghề nghiệp khác nhau - chưa bao giờ được mở rộng như thế. Từ yêu cầu thay đổi đối với lực lượng lao động, dẫn đến sự thay đổi trong nhu cầu học tập của các cá nhân, hệ thống GDĐH cần được đổi mới tương đối toàn diện. Trước hết đó là sự đổi mới trong chương trình đào tạo. Do sự tác động của cuộc CMCN lần thứ tư, nhiều ngành nghề mới sẽ hình hành và ngược lại cũng có những ngành nghề mất đi. Vì vậy, chương trình đào tạo của các trường phải được cập nhật, điều chỉnh liên tục. Các chương trình đào tạo không còn là đào tạo đơn ngành mà là đa ngành, liên kết giữa các lĩnh vực khác nhau như lý - sinh; cơ - điện tử… Tiếp đó, các trường cần có các mô hình đào tạo đa dạng, cung cấp phương tiện để đáp ứng được nhu cầu học tập suốt đời. Hai là, những đòi hỏi và kỳ vọng ngày càng cao của người học. Giống như bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào khác, nhu cầu thay đổi của người tiêu dùng (trong trường hợp này là sinh viên và người học) thúc đẩy sự thay đổi trong lĩnh vực giáo dục. Đặc điểm của người học đang thay đổi, không chỉ là những người trẻ nữa, mà là những người có nhu cầu học tập suốt đời. Giáo dục chung cho tất cả mọi người sẽ sớm bị thay thế bằng việc giáo dục được cá nhân hóa, phù hợp với nhu cầu và khả năng của người học. Người học dần có tư duy của người tiêu dùng và mua dịch vụ giáo dục đáp ứng tốt nhất nhu cầu của họ. Trong một thế giới có rất nhiều sự lựa chọn, thậm chí không bị ràng buộc bởi giới hạn địa lý, người học sẽ tìm đến những cơ sở GDĐH cung cấp được dịch vụ giáo dục tốt nhất, phù hợp với nhu cầu của mình, và họ sẽ đi nơi khác nếu kỳ vọng của họ không được đáp ứng. Chính vì thế, các trường đại học cần có sự chuẩn bị sẵn sàng về công nghệ để có thể tiến tới cung cấp được dịch vụ học tập được cá nhân hóa, học tập từ xa. Các trường sẽ có sự thay đổi mạnh mẽ trong hoạt động đào tạo, từ đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, quản lý sinh viên, phương pháp kiểm tra, đánh giá với sự ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin. Các trường phải thay đổi mô hình giảng dạy, như đào tạo trực tuyến không cần lớp học, không cần giảng viên đứng lớp, người học được hướng dẫn học qua mạng Internet,… để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người học. Ba là, sự xuất hiện các công nghệ và mô hình kinh doanh mới trong giáo dục. Mặc dù tốc độ thay đổi trong lĩnh vực giáo dục nói chung chậm hơn so với các lĩnh vực kinh doanh khác, nhưng sự phát triển các mô hình kinh doanh mới trong giáo dục, đặc biệt là GDĐH đang trở nên phổ biến hơn bao giờ hết nhờ chuyển đổi kỹ thuật số. Sự phát triển nhanh chóng trong công nghệ giáo dục như trí thông minh nhân tạo, dữ liệu lớn, internet vạn vật,… khiến cho những người trước đây nằm ngoài ngành giáo dục, giờ có thể tham gia và làm tổn hại đến các mô hình lâu đời của GDĐH. Những tác nhân mới này sử dụng công nghệ và dữ liệu để giới thiệu các phương pháp tiếp cận mới, thay thế nhằm đáp ứng tốt hơn những kỳ vọng đang thay đổi của người học. Hãy tưởng tượng những gã khổng lồ công nghệ như Google, Microsoft hoặc Amazon cung cấp chương trình giáo dục dựa trên trí tuệ nhân tạo, được cá nhân hóa, không tốn kém. Điều này sẽ tạo ra sức cạnh tranh vô cùng lớn đối với các cơ sở GDĐH truyền thống. Các trường đại học phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, không phải chỉ giữa các cơ sở GDĐH với nhau mà còn với những đối thủ mà trước đó là người “ngoài ngành”. Bốn là xu hướng “kỹ năng hơn bằng cấp”. Mặc dù bằng cấp vẫn còn giá trị, nhưng nói chung, chúng ta đang dần tiến tới một thực tế với việc tập trung nhiều hơn vào việc đạt được các kỹ năng chứ không phải bằng cấp. Quan điểm hiện tại thường cho rằng tấm bằng đại học là một công cụ đảm bảo cho thành công trong nghề nghiệp, bằng cấp tương quan với việc cải thiện cơ hội việc làm và đảm bảo mức thu nhập cao hơn. Tuy nhiên, giá trị của bằng cấp đang bị đặt câu hỏi nhiều hơn bao giờ hết và không chỉ ở những nước mà sinh viên phải đối mặt với học phí cao và nợ cả đời, mà còn ở những hệ thống giáo dục nơi đại học “miễn phí” (chi phí cơ hội của việc bỏ ra vài năm nghiên cứu có giá trị trong 60 năm tới trong một sự nghiệp có thể sẽ liên tục thay đổi theo thời gian). Liệu giáo dục đại học truyền thống có còn là cách tốt nhất để cung cấp cho mọi người những kỹ năng cần thiết để cạnh tranh trong các thị trường việc làm không thể đoán trước hay không vẫn còn là điều gây tranh cãi. Trong tình huống này, các trường đại học phải chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình đào tạo những gì thị trường cần, những nội dung của các môn học cơ bản sẽ phải được rút ngắn và thay thế vào đó là những nội dung cần thiết để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và giúp người học thực hiện được phương châm “học tập suốt đời”. 4. Một số đề xuất cho giáo dục đại học Việt NamCuộc CMCN lần thứ tư thực sự đặt GDĐH trước những thách thức diễn ra nhanh và sâu rộng, đòi hỏi sự đổi mới toàn diện trong hệ thống GDĐH các nước, trong đó có Việt Nam. Ở phần nội dung bài dưới đây, tác giả xin đưa ra một số đề xuất nhằm giúp GDĐH Việt Nam đáp ứng được với những nhu cầu của kỷ nguyên mới - kỷ nguyên CMCN lần thứ tư. 4.1. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước- Cần xây dựng chiến lược phát triển tổng thể GDĐH phù hợp với yêu cầu của kỷ nguyên mới. Chiến lược phát triển tổng thể GDĐH cần xác định vai trò then chốt trong việc cung cấp nguồn nhân lực bậc cao và đóng góp trực tiếp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đào tạo lực lượng lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng mềm, tư duy sáng tạo, có khả năng thích nghi với sự thay đổi liên tục của thị trường lao động, không phải chỉ trong nước mà cả khu vực và toàn cầu. - Ban hành các quy chế, quy định đảm bảo dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học. - Coi trọng quản lý chất lượng, chuẩn hóa các điều kiện đảm bảo chất lượng và quản lý quá trình đào tạo; xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng đào tạo. - Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các trường đại học. - Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, khuyến khích liên kết với các cơ sở đại học nước ngoài có uy tín, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong GDĐH. 4.2. Về phía các trường đại học- Đổi mới chương trình đào tạo: Các trường cần từng bước xây dựng chương trình đào tạo, bổ sung thêm các môn học mới để cung cấp kiến thức cập nhật hơn, hướng tới phát triển các kỹ năng cần thiết cho các công nghiệp trong thời kỳ CMCN lần thứ tư. Trang bị cho người học năng lực tư duy, sáng tạo, có kỹ năng phân tích và tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập, có ý thức học tập suốt đời. - Đổi mới mô hình hình đào tạo: Với yêu cầu về nguồn lao động và nhu cầu học tập đa dạng, suốt đời của người học, các cơ sở GDĐH cần tạo ra mô hình giáo dục thông minh, liên kết giữa các yếu tố nhà trường - doanh nghiệp. Các cơ sở GDĐH phải đảm bảo cho tất cả mọi người có nhu cầu học tập có thể tiếp cận dịch vụ GDĐH phù hợp thông qua các hình thức, lộ trình đào tạo khác nhau. - Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động giáo dục, đào tạo: Các cơ sở GDĐH cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ hiện đại trong quản lý, giảng dạy và học tập bằng việc đầu tư các thiết bị, hệ thống thông tin quản lý, hệ thống đào tạo trực tuyến, hệ thống giảng đường hiện đại, xây dựng thư viện điện tử,… - Xây dựng đội ngũ quản lý và giảng viên có trình độ cao về chuyên môn nghiệp vụ. Để đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN lần thứ tư đòi hỏi đội ngũ quản lý và giảng viên phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến CMCN lần thứ tư, biết ứng dụng công nghệ hiện đại trong công tác quản lý, giảng dạy, có khả năng thích ứng trước sự thay đổi về chương trình, mô hình đào tạo và nhu cầu học tập của người học. - Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ: Các cơ sở GDĐH cần thể hiện vai trò tiên phong của mình trong việc thực hiện sứ mệnh nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ. Để thực hiện sứ mệnh đó cần đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng kết quả nghiên cứu đó trong hoạt động dạy - học và quản lý đào tạo, tăng cường trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm, hình thành mạng lưới nghiên cứu khoa học giữa các cơ sở GDĐH trong và ngoài nước. - Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động giáo dục đào tạo: các cơ sở GDĐH trong nước cần tăng cường hợp tác quốc tế, đặc biệt là với các cơ sở GDĐH có uy tín trong khu vực và thế giới để tiếp cận với những phương pháp dạy - học, cách thức quản lý, thành tựu khoa học giáo dục tiên tiến, hiện đại của thế giới, để từ đó nâng cao hiệu quả của GDĐH Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 9, tháng 4 năm 2021] |