Tiêu luận các nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước

Tài liệu "Các nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước những trường hợp phá vỡ và giới hạn của chúng" có mã là 238642, file định dạng doc, có 9 trang, dung lượng file 67 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục: Luận văn đồ án > Luật. Tài liệu thuộc loại Đồng

Nội dung Các nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước những trường hợp phá vỡ và giới hạn của chúng

Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Các nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước những trường hợp phá vỡ và giới hạn của chúng để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang.
Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 9 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần tải.

Xem preview Các nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước những trường hợp phá vỡ và giới hạn của chúng

Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.

Các nguyên tác cơ bản của ngân sách nhà nước Theo quan niệm cổ điển về ngân sách, thể chế ngân sách trong mỗi quốc gia được thiết lập và vận hành theo bốn nguyên tắc cơ bản đó là: Nguyên tắc ngân sách nhất niên; Nguyên tắc ngân sách đơn nhất; Nguyên tắc ngân sách toàn diện; Nguyên tắc ngân sách thăng bằng.

Ngày nay, hầu hết các nguyên tắc này vẫn được giới học giả đương thời thừa nhận như một quan điểm khoa học có tính lịch sử và đi xa hơn, họ còn luôn tìm cách củng cố, phát triển và đổi mới chúng để cho phù hợp với bối cảnh của nền tài chính công hiện đại.

Xét về phương diện nội dung, nguyên tắc này có hai khía cạnh cơ bản:

+ Mỗi năm, quốc hội (với tư cách là cơ quan nắm quyền - lập pháp) sẽ biểu quyết ngân sách một lần theo hạn kỳ do luật định.

+ Bản dự toán ngân sách nhà nước sau khi đã được quốc hội quyết định chỉ có giá trị hiệu lực thi hành trong một năm và chính phủ - với tư cách là cơ quan nắm quyền hành pháp cũng chỉ được phép thi hành trong năm đó.

Ngày nay, nguyên tắc này vẫn còn nguyên giá trị nhưng các học giả đương thời đã phát triển nó bằng cách đòi hỏi các nhà làm luật phải ghi rõ trong hiến pháp như là một trong những nguyên tắc hiến định. Ở Việt Nam, nguyên tắc ngân sách nhất niên được quy định tại Điều 14 Luật ngân sách nhà nước: Quy định các khoản thu và chi của ngân sách nhà nước được thực hiện trong một năm và năm ngân sách bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 đến ngày 31 tháng 12 năm dương lịch.

Mọi khoản thu và chi tiền tệ của Quốc gia trong một năm chỉ được phép trình bày trong một văn kiện duy nhất, đó là bản dự toán ngân sách nhà nước sẽ được Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn để thực hiện. Nguyên tắc này cũng được xây dựng đầu tiên ở các nước có nền dân chủ sớm phát triển như Anh, Pháp, Đức... và ngày nay cũng đã trở thành một nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi ở nhiều nước khác trên thế giới.

Nếu các khoản thu và chi lại trình bày trong nhiều văn bản khác nhau sẽ gây khó khăn cho việc thiết lập một ngân sách thăng bằng và hiệu quả, mà còn khiến cho Quốc hội (với quyền lập pháp có trong tay) cũng khó kiểm soát, lựa chọn được những khoản thu, chi nào là cần thiết hay quan trọng để phê chuẩn cho phù hợp với nhu cầu và đòi hỏi của nền kinh tế – xã hội. Chẳng hạn, có hai việc chi, một việc cần thiết và một việc không quá mang tính cấp bách. Nếu đem hai việc đó trình Quốc hội định đoạt một thời điểm chắc chắn Quốc hội sẽ chọn việc chi tiêu cần thiết, nếu không có đủ kinh phí để tài trợ cho cả hai việc. Trong khi nếu việc trình Quốc hội chia làm nhiều thời điểm khác nhau và việc chi tiêu không quá cần thiết được trình trước thì Quốc hội sẽ thông qua việc chi này vì chưa biết được liệu trong tương lai có việc chi nào khẩn cấp hơn. Nguyên tắc này cho ta biết rõ dung lượng tổng cộng của ngân sách, không quên một khoản nào cũng không có khoản nào bị thi hành tới 2 lần. Tiếc rằng trong pháp luật thực định ở nước ta hiện nay chưa có điều luật nào ghi nhận một cách rõ ràng, chính thức về nguyên tắc này nên khiến cho việc thực hiện nó trong thực tế có phần lỏng lẻo.

Cùng với hai nguyên tắc trên, nguyên tác ngân sách toàn diện cũng đã được đề cập từ thế kỷ XVII, XVIII ở nước Anh và các nước châu Âu lục địa khác. Nguyên tắc này có thể được diễn tả bằng hai nội dung cơ bản sau đây:

+ Mọi khoản thu và mọi khoản chi đều phải ghi và thể hiện rõ ràng trong bản dự toán ngân sách nhà nước hàng năm đã được Quốc hội quyết định; không được phép để ngoài dự toán ngân sách bất kỳ khoản thu, chỉ nào dù là nhỏ nhất.

+ Các khoản thu và các khoản chỉ không được phép bù trừ cho nhau mà phải thể hiện rõ ràng từng khoản thu và mỗi khoản chỉ trong mục lục ngân sách nhà nước được duyệt, không được phép dùng riêng một khoản thu cho một khoản chỉ cụ thể nào mà mọi khoản thu đều được dùng để tài trợ cho mọi khoản chỉ. Tất nhiên, khi áp dụng nguyên tác này cần tính đến việc phải tuân thủ nguyên tác “Các khoản đi vay để bù đắp bởi chỉ ngân sách không được sử dụng để chi tiêu dùng mà chỉ được sử dụng để chỉ cho đầu tư phát triển".

Với hai nội dung cơ bản nêu trên, việc thực hiện nguyên tác ngân sách toàn diện sẽ bảo đảm cho bản dự toán ngân sách được thiết lập rõ ràng, cụ thể, minh bạch, đầy đủ và để kiểm soát, tránh sự gian lẫn hay biến thủ công quý trong quá trình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hàng năm.

Theo nghĩa cổ điển, nguyên tắc ngân sách thăng bằng được hiểu là tất cả các khoản thu đều phải bằng tất cả các khoản chi. Sự thăng bằng giữa các khoản thu và chi ngân sách phải được xác lập ngay từ khi lập dự toán ngân sách cho đến khi thực hiện xong kế hoạch dự toán đó. Tuy nhiên, trên thực tế, khả năng thu cũng như nhu cầu chi tiêu của mỗi quốc gia trong một năm thường xuyên biến đổi không ngừng, dưới sự tác động của rất nhiều yếu tố nên nguyên tắc thăng bằng chỉ được hiểu ở mức tương đối là các khoản thu chi phải tương ứng với nhau.

Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, sự mất thăng bằng của ngân sách nhà nước đều có thể dẫn đến những hậu quả bất lợi. Chẳng hạn, nếu tổng số chi lớn hơn tổng số thu (có nghĩa xảy ra tình trạng bội chi ngân sách nhà nước) thì số bội chi này thường ít có khả năng bù đắp nồi bằng các khoản thuế hay các khoản vay nợ, viện trợ nước ngoài mà đôi khi phải sử dụng đến giải pháp vay nợ ngắn hạn từ Ngân hàng trung lương, nghĩa là phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các khoản thâm hụt ngân sách nhà nước. Hậu quả là việc áp dụng giải pháp này có thể sẽ gây ra tình trạng lạm phát tiền tệ trong nền kinh tế, nếu Chính Phủ cứ lạm dụng việc vay tiền từ Ngân hàng trung ương để bù đắp bội chi ngân sách hàng năm. Ngược lại, nếu tổng số thu lớn hơn tổng số chi (có nghĩa là bội thu ngân sách) thì hậu quả về phương diện kinh tế lẫn phương diện tài chính đều không phải hoàn toàn có lợi, bởi lẽ khi đó sẽ có một số lượng vốn ngân sách (tư bản) không được Chính Phủ đem ra sử dụng cho nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội vốn không ngừng gia tăng và phát triển. Một khoản tiền của quốc gia sẽ không được đưa vào lưu thông, nền kinh tế trong nước như vậy sẽ mất đi một khoản lợi tức. Mặt khác, việc dư thừa một nguồn vốn ngân sách đáng kể trong Kho bạc nhà nước sẽ dễ dàng tạo ra tâm lý sử dụng ngân sách không tiết kiệm và kém hiệu quả, đồng thời cũng có thể tạo ra cơ hội cho một số nhân viên công quyền tìm cách tham ô, biến thủ công quỹ để mưu lợi cá nhân.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Luật Ngân sách nhà nước 2015

Luật Hoàng Anh

Nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước những tưởng chỉ đạo để xây dựng nên một bản NSNN (khác nguyên tắc của Luật NSNN)

Bốn nguyên tắc bản

  • Nguyên tắc ngân sách nhất niên
  • Nguyên tắc ngân sách đơn nhất
  • Nguyên tắc ngân sách toàn diện; và 
  • Nguyên tắc ngân sách thăng bằng

Nguyên tắc nhất niên của ngân sách, ra đời đầu tiên nước Anh vào cuối thế kỷ 17, khi Nghị viện Anh ngày càng trở nên vững mạnh cùng với sự suy yếu của chế độ vương quyền. Nguyên tắc này được thiết lập Anh nhằm giúp Nghị viện Anh dễ kiểm soát Nhà Vua trong việc thu thuế chi tiêu các khoản tiền của quốc gia, qua việc Nghị viện yêu cầu mỗi m NVua phải để trình lên một bản dự toán các khoản thu chi mình sẽ thực hiện để phê chuẩn; đồng thời để cho việc thực hiện các khoản thu, chi được hiệu quả giúp cho Nghị viện kiểm soát kịp thời đối với mọi hành vi của Nhà Vua trong việc chi tiêu, tránh sự lãng phí hay bất công, Nhà Vua chỉ được phép thực hiện kế hoạch thu chi của mình trong thời hạn 1 năm, sau đó mun thu chi tiếp thì phải được Nghị viện cho phép bằng cách phê chuẩn trong năm tiếp theo

Trên thực tế, mặc nguyên tắc này được hình thành sớm nhất Anh (năm 1689 năm khai sinh nguyên tắc này, năm đó Quốc hội Anh yêu cầu sự nuôi dưỡng quân đội của Nhà Vua chi được phép thi hành trong một năm, hết năm đó, nếu muốn nuôi dưỡng quân đội tiếp tục thì Nhà Vua phải được Quốc hội trng thuận) nhưng sau đó đã trở thành một nguyên tắc được thừa nhận các nước nền dân chủ phát triển sớm châu Âu như Pháp, Đức. Hiện nay nguyên tắc này đã được thừa nhận thực hiện hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Nội dung

Mỗi năm, Quốc hội (với cách quan nắm quyền lập pháp) sẽ biểu quyết hay phê chuẩn ngân sách một lần theo hạn do luật định

Bản dự toán các khoản thu, chi của Quốc gia sau khi đã được Quốc hội biểu quyết hay phê chuẩn chỉ giá trị hiệu lực thi hành trong một năm Chính phủ (với cách quan nắm quyền hành pháp) cũng chỉ được phép thi hành trong năm đó

Việt Nam, nguyên tắc ngân sách nhất niên được ghi nhận tại Điều 1 và Điều 14 Luật ngân sách nhà nước theo đó, các khoản thu chi của ngân sách nhà nước được thực hiện trong 1 năm năm ngân sách bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 31 tháng 12 năm dương lịch

+ Một năm: Đế Quc hội dễ bề kiểm soát được kế hoạch thu chi của Chính phủ, không để quá dài hay quá ngắn sẽ không thời gian hợp để quyết toán

Câu hỏi đặt ra là: Liệu nguyên tắc ngân ch nhất niên áp dụng với việc thi hành nn ch không? dụ: Trong năm 2005 khoản kinh phí vài tỷ để chi vào việc xây dựng một công trình sở hạ tầng. Nhưng kinh phí này chưa được sử dụng trong năm 2005.Vậy còn giá trị để đem chi tiêu trong năm 2006 không, theo ngân sách, Quốc hội chỉ cho phép Chính phủ thực hiện khoản chi đó trong năm 2005. giả dụ, kinh phí này được phép sử dụng trong năm 2006 thì về phương diện kế toán người ta phải ghi khoản chi đó vào tài khoá 2005 hay 2006

hai chế độ được đặt ra để giải quyết vấn đề y. Theo chế độ quản trị: người ta chỉ chú trọng tới việc các khoản thu chi đã thực sự xảy ra trong năm nào, giống như việc các nội trợ mỗi ngày ghi sổ các món chi tiêu. Tức theo chế độ quản trị thì người ta quan tâm tới việc thu chi thực sự chứ không quan tâm tới việc các khoản thu, chi này được ghi một ngân sách năm khác, không phải năm việc thu chi thực sự xảy ra. Như vậy theo chế độ quản trị, khoản kinh phí trên sẽ được ghi vào ngân sách năm 2005 chứ không phải ngân sách 2004 –> Các hứa chi của một năm ngân sách sẽ mất giá trị khi kết thúc ngày 31.12 năm đó. Muốn để khoản chi này được thực hiện tiếp tục thì phải ghi nhận lại trong trong ngân sách năm sau. Ưu điểm của chế độ này giúp cho việc kế toán các khoản thu chi trở nên đơn giản thực hiện theo thứ tự thời gian xảy ra. Song nhược điểm thể gây nên ssai lệch các khoản mục ngân sách, dụ: nếu trình bày sự thi hành ngân sách năm 2005 chỉ bao gồm các khoản thu chi trong năm đó không lưu ý đến việc đã dự trù năm trước nhưng chưa kịp chi, như vậy sẽ đem lại một hình ảnh không đúng về ngân sách bởi trong năm ngân sách 2005 họ đã không tính tới những món nợ cần phải trả, những việc chi tiêu cần phải thực hiện cho năm ngân sách 2005

Chế độ thứ hai là chế độ tài khoả, theo đó, một khoản chi đã được chuẩn hứa trong năm ngân sách 2005 thì phải ghi chi vào quyết toán ngân sách 2005 coi như được thi hành trong năm ngân sách đó khoản chi được thực hiện vào năm 2006. Nvậy, một khoản chi nếu đã được đưa vào dự toán NS năm nào thì sẽ được coi như thuộc về NS năm đó rằng việc thực chỉ thể xảy ra trong năm sau. Nhưng nhược điểm trong c khoản chi tiết của năm ngân ch, người ta phải phân biệt khoản chi o của ngân sách năm trước khoản chi nào của ngân sách năm đó. Các chương mục của Kế toán viên (Chương mục quỹ) ghi việc trả tiền theo thời gian không ăn khớp với Chương mục Ngân sách ghi các việc chi tiêu theo năm chuẩn hứa, việc quyết toán ngân sách sẽ gặp khó khăn. Pháp luật ngân sách Việt Nam quy định: các khoản chi ngân sách thuộc dự toán năm trước nhưng chưa thực hiện, hoặc chưa thực hiện hết thì không được chuyển sang năm sau chi tiếp trừ trường hợp được BT Bộ Tài chính hoặc CT UBND Tỉnh quyết định cho chi tiếp thì hạch toán quyết toán như sau: +Nếu thực hiện trong thời gian chỉnh quyết toán thì dùng tồn quỹ ngân ch năm trước để xử hạch toán quyết toán vào chi ngân sách năm trước 

+ Nếu được quyết định thực hiện trong năm sau thì quan tài chính làm thủ tục chi chuyển nguồn sang năm sau để chi tiếp. Các đơn vị thực hiện hạch toán quyết toán số chi chuyển nguồn năm trước sang năm sau, ngân sách các cấp thực hiện quyết toán số chi chuyển nguồn năm trước sang năm sau vào chi ngân sách năm trước....(Vr: Đ.66 NĐ 60 ngày 6.6.2003 hướng dẫn LNSNN 16.12.2002)

Hình minh họa. Các nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước

Mọi khoản thu chi tiền tệ của Quốc gia trong một năm chỉ được phép trình y trong một văn kiện duy nhất, đó bản dự toán ngân sách nhà nước sẽ được Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn để thực hiện. Nguyên tắc này cũng được xây dựng đầu tiên các nước nền dân chủ sớm phát triển như Anh, Pháp, Đức... ngày nay cũng đã trở thành một nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi nhiều nước khác trên thế giới. do

Nếu các khoản thu chi lại trình bày trong nhiều văn bản khác nhau sẽ gây khó khăn cho việc thiết lập một ngân sách thăng bằng hiệu quả, còn khiến cho Quốc hội (với quyền lập pháp trong tay) cũng khó kiểm soát, lựa chọn được những khoản thu, chi nào cần thiết hay quan trọng để phê chuẩn cho phù hợp với nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế hội. Chẳng hạn, hai việc chi, một việc cần thiết một việc không quá mang tính cấp bách. Nếu đem hai việc đó trình Quốc hội định đoạt một thời điểm chắc chắn Quốc hội sẽ chọn việc chi tiêu cần thiết, nếu không đủ kinh phí để tài trợ cho cả hai việc. Trong khi nếu việc trình Quốc hội chia làm nhiều thời điểm khác nhau việc chi tiêu không quá cần thiết được trình trước thì Quốc hội sẽ thông qua việc chi này chưa biết được liệu trong tương lai việc chi nào khẩn cấp hơn. Nguyên tắc này cho ta biết dung lượng tổng cộng của ngân sách, không quên một khoản nào cũng không khoản nào bị thi hành tới 2 lần. Tiếc rằng trong pháp luật thực định nước ta hiện nay chưa điều luật nào ghi nhận một cách ràng, chính thức về nguyên tắc này nên khiến cho việc thực hiện trong thực tế phần lỏng lẻo

Liệu khoản chi nào được thực hiện ngoài ngân sách?

Nguyên tắc này mang tính định tính, không mang tính định lượng 

Cùng với hai nguyên tắc trên, nguyên tắc ngân sách toàn diện cũng đã được đề cập đến từ thế kỷ 17, 18 nước Anh các nước châu Âu lục địa khác. Nội dung

Mọi khoản thu mọi khoản chi đều phải ghi thể hiện ràng trong bản dự toán ngân sách nhà nước hàng năm đã được Quốc Hội phê chuẩn; không được phép để ngoài dự toán ngân sách bất khoản thu, chi nào

Các khoản thu các khoản chi không được phép trừ cho nhau phải thể hiện ràng từng khoản thu mỗi khoản chi trong mục lục ngân sách nhà nước được được duyệt; không được phép dùng riêng một khoản thu nào cho riêng một khoản chi cụ thể nào mọi khoản thu đều được dùng để tài trợ cho mọi khoản chi. dụ: Một đơn vchi phí hết 500triệu nhưng khoản thu 700 triệu, Lấy 700500 = 200 Triệu, chỉ ghi 200 triệu vào phần thi của NS, như vậy trừ, chi ghi phần sai số o phần thu của NS. Làm như vậy quan quyết toán ngân sách sẽ không có ý niệm rệt tổng quát về những khoản chi thu thực sự của toàn thể các chủ thể sử dụng ngân ch. Đồng thời, khi áp dụng nguyên tắc này phải tuân thủ nguyên tắc các khoản đi vay để đắp bội chi ngân sách không được sử dụng để chi tiêu dùng chỉ được sử dụng để chi cho đầu phát triển

Với hai nội dung bản nêu trên, việc thực hiện nguyên tắc ngân sách toàn diện sẽ đảm bảo cho bản dự toán ngân sách được thiết lập ràng, cụ thể, minh bạch, đầy đủ dễ kiểm soát, tránh sự gian lận hay biến thủ công quỹ trong quá trình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hàng năm. Tại Việt Nam, nguyên tắc ngân sách toàn diện được ghi nhận tại Điều 6 của Luật ngân sách nhà nước, với nội dung cụ thể : tất cả các khoản thu, chi của ngân sách nhà nước đều phải được hạch toán đầy đủ vào ngân sách nhà nước. Việc phân biệt nguyên tắc nn sách toàn diện ngân sách đơn nhất chỗ nguyên tắc toàn diện nhấn mạnh tới yếu tố tất cả các khoản chi trong khi nguyên tắc đơn nhất nhấn mạnh vào yếu tố một ngân sách duy nhất. Nguyên tắc đơn nhất yêu cầu việc ghi tất cả các khoản chi vào một tài liệu duy nhất trong khi nguyên tắc toàn diện u cầu ghi ràng tỉ mỉ việc thu chi c khoản thu chi không được 

Theo nghĩa cổ điển, nguyên tắc ngân sách thăng bằng được hiểu tất cả các khoản thu đều phải bằng tất cả các khoản chi. Sự thăng bằng giữa các khoản thu chi ngân sách phải được xác lập ngay từ khi lập dự toán ngân sách cho đến khi thực hiện xong kế hoạch dự toán đó. Tuy nhiên, trên thực tế, khả năng thu cũng như nhu cầu chi tiêu của mỗi quốc gia trong một năm thường xuyên biến đổi không ngừng, dưới sự tác động của rất nhiều yếu tố nên nguyên tắc thăng bằng chỉ được hiểu mức tương đối các khoản thu chi phải tương ứng với nhau

Tại sao phải áp dụng nguyên tắc này

Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, sự mất thăng bằng của ngân sách nhà nước đều thể dẫn đến những hậu quả bất lợi. Chẳng hạn, nếu tổng số chi lớn hơn tổng số thu (nghĩa xảy ra tình trạng bội chi ngân sách nhà nước) thì số bội chi này thường ít khả năng đắp nồi bằng các khoản thuế hay các khoản vay nợ, viện trợ nước ngoài đôi khi phải sử dụng đến giải pháp vay nợ ngắn hạn từ Ngân hàng trung lương, nghĩa phát nh thêm tiền vào lưu thông để đắp cho các khoản thâm hụt ngân sách nhà nước. Hậu quả việc áp dụng giải pháp này thể sẽ gây ra tình trạng lạm phát tiền tệ trong nền kinh tế, nếu Chính Phủ cứ lạm dụng việc vay tiền từ Ngân hàng trung ương để đắp bội chi ngân sách hàng năm (Plus concretement vai trò NH của Chính phủ của NHNN). Ngược lại, nếu tổng số thu lớn hơn tổng số chi (nghĩa bội thu ngân sách) thì hậu quả về phương diện kinh tế lẫn phương diện tài chính đều không phải hoàn toàn lợi, bởi lẽ khi đó sẽ một số lượng vốn ngân sách (bản) không được Chính Phủ đem ra sử dụng cho nhu cầu phát triển kinh tế hội vốn không ngừng gia tăng phát triển. Một khoản tiền của quốc gia skhông được đưa vào lưu thông, nền kinh tế trong nước như vậy sẽ mất đi một khoản lợi tức,. Mặt khác, việc thừa một nguồn vốn ngân sách đáng kể trong Kho bạc nhà nước sẽ dễ dàng tạo ra tâm sử dụng ngân sách không tiết kiệm và kém hiệu quả, đồng thời cũng thể tạo ra hội cho một số nhân viên công quyền tìm cách tham ô, biến thủ công quỹ để mưu lợi nhân. Có một thí dụ được đưa ra trong Tài chính ng năng 1930, ngân ch Pháp thặng . Quốc hội biểu quyết tăng lương hưu trí của các cựu chiến binh. Khoản chi tiết này được i trợ một cách dễ dàng khi đó NS đang thừa. Đạo luật này cũng được nhiều người tán thành. Nhưng vài năm sau, khi NS bắt đầu lệch về phía chi, lương bổng của các cựu chiến binh trở nên một gánh nặng với Ngân ch. Người ta nói rằng những khoản thu trội của NS rất nguy hại về phương diện chính trị, thúc đẩy Quốc hội làm những vic mị dân hậu quả của một thời gian sau mới thy thật nguy hiểm

Vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường thể khắc họa ba khía cạnh chủ yếu: một , công cụ phân phối tái phân phối thu nhập xã hội, điều hoà lợi ích giữa Nhà nướcvới các chủ thể khác trong hội ; hai , công cụ điều tiết các hoạt động kinh tế; ba , công cụ hướng dẫn tiêu dùng hội

Cụ thể

Trong phân phối tổng sản phẩm hội

+ Nhà nước xác định một cách khoa học, đặt ra tỷ lệ huy động tổng sản phẩm hội o NSNN, lấy đó làm căn cứ điều chỉnh quan hệ Nnước với doanh nghiệp và dân trong phân phối tổng sản phẩm hội, đảm bảo nhu cầu của doanh nghiệp dân , đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, tiết kiệm đầu phát triển 

+ Xác định quan hệ thuế trong tổng sản phẩm hội, đảm bảo NN nguồn thu thường xuyên, ổn định thực hiện điều tiết hợp lợi ích trong nền kinh tế quốc dân 

+ Xác định các hình thức huy động nhằm trang trải bội chi cho NSNN 

Trong điều tiết các hoạt động kinh tế: NSNN giúp ổn định tăng trưởng kinh 

+ Thuế công cụ chủ yếu để NN điều tiết nền kinh tế. Qua công cụ thuế, NN huy động được một bộ phận của cải o NSNN, thúc đẩy sắp xếp lại sản xuất, bảo vệ kinh tế nội địa, thực hiện sự cạnh tranh bình đẳng lành mạnh giữa các thành phần kinh tế (VD về thuế suất một số loại thuế)

+ NN sdụng NSNN để đầu cho các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế hội, tạo môi trường thuận lợi cho đầu khai thác tài nguyên, sức lao động, thị trường.

+ Đầu vào các ngành kinh tế mũi nhọn chỗ dựa cho các ngành các thành phần kinh tế 

+ Kiềm chế đẩy lùi lạm phát, góp phần ổn định phát triển sản xuất, đời sống nhân dân. Qua thu chi NS tác động quan hệ cung cầu về tiền tệ 

Trong hướng dẫn tiêu dùng hội: chủ yếu trên lĩnh vực thuế

Video liên quan

Chủ đề