Thông tư hướng dẫn tội tiêu thụ tài sản năm 2024

(LSVN) - Tuy Bộ luật Hình sự đã có sửa đổi, bổ sung ngày càng hoàn thiện nhưng trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật để xét xử người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có xảy ra trong thực tiễn cho thấy vẫn còn có sai sót, khó khăn, vướng mắc, bất cập chưa phù hợp về mặt lý luận và thực tiễn.

Thông tư hướng dẫn tội tiêu thụ tài sản năm 2024

Ảnh minh họa.

1. Một số vướng mắc

1.1. Vướng mắc về việc xác định “Tài sản do người khác phạm tội mà có”

- Thứ nhất, người chiếm đoạt tài sản chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người chứa chấp, tiêu thụ tài sản có phải chịu trách nhiệm trách nhiệm hình sự không?

Giả sử tình huống: A. (chưa đủ 16 tuổi) đã trộm được chiếc điện thoại của B. và bán cho C., C. biết rõ điện thoại do A. trộm được nhưng C. vẫn mua (việc mua bán không có hứa hẹn trước). Sau đó, A. và C. bị Công an bắt, chiếc điện thoại được định giá 03 triệu đồng. Hành vi của A. không bị xử lý về tội trộm cắp tài sản do A. chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

Trong trường hợp này, C. có phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có hay không?

Quan điểm thứ nhất cho rằng: C. phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Điều 323, Bộ luật Hình sự 2015 vì điều luật quy định hành vi không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có. Trong trường hợp nêu trên C. biết rõ chiếc điện thoại A. có được là do trộm cắp; hơn nữa tài sản có giá trị 03 triệu nên C. đã tiêu thụ tài sản do A thực hiện hành vi phạm tội mà có; do vậy việc C. phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tiêu thụ là phù hợp, tránh bỏ lọt tội phạm.

Quan điểm thứ hai cho rằng: C. không phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, vì hành vi của A. không phạm tội trộm cắp tài sản; tài sản A. có được đem tiêu thụ cho C. chỉ là hành vi vi phạm pháp luật hành chính mà không phải là hành vi phạm tội; trong khi điều luật xác định tài sản tiêu thụ phải là tài sản có được do hành vi “phạm tội” mà có; điều đó có nghĩa để truy cứu trách nhiệm hình sự của C. thì A. cũng phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội để có được tài sản. Do vậy hành vi của C. không cấu thành tội phạm mà chỉ là vi phạm hành chính.

Tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất: C. phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Điều 323, Bộ luật Hình sự. Vì trong trường hợp trên mặc dù A. chưa đến tuổi truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp, nhưng hành vi khách quan và giá trị tài sản A. chiếm đoạt đã thỏa mãn hành vi khách quan của tội phạm – có mức độ nguy hiểm cho xã hội nhất định; việc A. không bị xử lý hình sự là do chính sách của Nhà nước ta đối với người phạm tội là người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Tài sản do C. tiêu thụ đã thỏa mãn điều kiện về giá trị tài sản của tội trộm cắp tài sản và thực tế C. đã tiêu thụ tài sản do A. phạm tội nên hành vi của C. đã cấu thành tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Theo Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TAND Tối cao đã giải đáp về trường hợp tương tự như trên, kết luận phần định tội theo quan điểm thứ nhất. Tuy nhiên, lập luận trên Công văn lại dựa vào Thông tư Liên tịch 09 đã hết hiệu lực thi hành. Qua đó, cho thấy vấn đề này thực sự vướng mắc trên thực tế và hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn đối với Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, nhà làm luật nên sửa đổi nội dung điều luật hoặc ban hành văn bản mới để hướng dẫn điều luật này.

- Thứ hai, có cần xác định giá trị tài sản chứa chấp, tiêu thụ hay không?

Giả sử P. và N. trộm tài sản lần thứ nhất có giá trị 1.500.000 đồng và bán cho Y., cơ quan chức năng đã xử phạt hành chính về việc này. Đến lần thứ hai, P. và N. tiếp tục trộm tài sản có giá trị 1.500.000 đồng và bán cho T., lần này thì P. và N. đã đủ dấu hiệu cấu thành nên bị xử lý hình sự về tội trộm cắp tài sản. Hành vi tiêu thụ của T và Y là tương tự nhau nhưng lúc Y tiêu thụ thì P. và N. chỉ vi phạm hành chính nên Y. cũng bị xử phạt hành chính, còn lúc T. tiêu thụ thì P. và N. bị xử lý hình sự. Trong trường hợp này thì T. có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không? Nếu xét theo quy định tại Điều 323, Bộ luật Hình sự 2015 thì T. đã tiêu thụ tài sản do phạm tội trộm cắp mà có nên đủ yếu tố cấu thành tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng xét về hành vi và giá trị tài sản thì T. và Y. là tương tự nhau nếu xử lý khác nhau thì không công bằng, không hợp tình và hợp lý.

Có sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật khi quy định trách nhiệm pháp lý đối với hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Theo Thông tư Liên tịch 09, “tiêu thụ tài sản” là một trong các hành vi sau đây: Mua, bán, thuê, cho thuê, trao đổi cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký gửi, cho, tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc thực hiện các hành vi đó . Như vậy, người nào không hứa hẹn trước mà có hành vi “Cầm cố tài sản do người khác phạm tội mà có” sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Tuy nhiên, Nghị định số 167 cũng quy định cá nhân có hành vi “Cầm cố tài sản do trộm cắp, lừa đảo, chiếm đoạt hoặc do người khác phạm tội mà có thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng . Chính sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định này sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho chủ thể có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật trên thực tế. Bởi lẽ, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự là hai loại trách nhiệm pháp lý hoàn toàn độc lập với nhau. Trong đó, trách nhiệm hình sự áp dụng với những vi phạm pháp luật (tội phạm) có tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn so với các vi phạm pháp luật (vi phạm hành chính) bị xử phạt vi phạm hành chính. Thậm chí, sự bất cập này còn là nguyên nhân dẫn đến nhiều khiếu nại, khởi kiện liên quan đến việc áp dụng pháp luật đối với hành vi tiêu thụ tài sản dưới hình thức “Cầm cố tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy khi các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phát hiện người có hành vi “Cầm cố tài sản do người khác phạm tội mà có” thì sẽ áp dụng quy định của Nghị định 167 để xử phạt vi phạm hành chính. Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và đặc biệt là Tòa án khi phát hiện hành vi nói trên sẽ áp dụng Điều 323 Bộ luật Hình sự 2015 để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Thực ra cách giải quyết này chỉ là giải pháp tình thế để khắc phục bất cập của pháp luật chứ việc áp dụng trách nhiệm pháp lý khác nhau đối với một vi phạm pháp luật giống nhau là điều hoàn toàn không phù hợp với nguyên tắc truy cứu trách nhiệm pháp lý, đồng thời không phù hợp với mô hình của nhà nước pháp quyền.

Do đó, vướng mắc được đặt ra là cần thể hiện trong luật phân biệt trường hợp chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bị coi là tội phạm với trường hợp chỉ bị coi là hành vi vi phạm pháp luật hành chính.

Về yếu tố định lượng đối với tài sản là đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tại Điều 323, Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định rõ các yếu tố định lượng về tài sản chiếm đoạt làm tình tiết định khung tăng nặng để phân hóa trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đối với dấu hiệu định tội thì điều luật này không quy định cụ thể về định lượng tối thiểu của tài sản chứa chấp hoặc tiêu thụ để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự. Do vậy, liên quan đến vấn đề này có nhiều quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Điều luật không đòi hỏi yếu tố định lượng của tài sản nên dẫn đến cách hiểu rằng, nếu cứ có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này mặc dù giá trị tài sản là rất nhỏ. Thực tiễn, đây là một bất cập bởi vì hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có phải đến một giá trị nhất định mới thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội này.

Giả sử tình huống như sau: Anh N. là người làm thuê cho gia đình bà X. Nhân lúc bà X. không cảnh giác, anh N. lấy trộm 3.000.000 đồng. Sau đó, anh N. đưa cho chị M. (người yêu của anh N.) 100.000 đồng để tiêu xài. M. thắc mắc tiền ở đâu ra thì N. thành thật nói cho M. nghe nhưng M. vẫn không nói gì và vẫn nhận số tiền đó. Trong tình huống này, N. đã phạm tội trộm cắp tài sản và số tiền anh N. lấy được là tài sản do phạm tội mà có. Mặc dù, M. có hành vi nhận tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng nếu truy cứu trách nhiệm hình sự M. về tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" là chưa hợp lý bởi theo tác giả giá trị tài sản mà M. tiêu thụ trong trường hợp này là nhỏ, chưa đến mức nguy hiểm “đáng kể” cho xã hội.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Lập luận trên chưa hợp lý vì chưa thấy được nguy hiểm của tội phạm vượt trội so với các vi phạm pháp luật khác. Trong tội này, đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có nguồn gốc từ hành vi phạm tội của người khác. Với ý nghĩa là đối tượng có được do phạm tội mà có thì tài sản trong tội này có được từ bất cứ tội nào chứ không chỉ riêng đối với các tội xâm phạm sở hữu. Trong khi đó, định lượng tài sản trong mỗi tội theo Bộ luật Hình sự là khác nhau, có tội không quy định về định lượng. Thêm nữa, giá trị pháp lý của tài sản trong tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có không phải ở việc nó có giá bao nhiêu mà là ở giá trị chứng minh và ý nghĩa của nó đối với tội phạm mà người khác thực hiện. Do đó, điều luật không nêu định lượng đối với tài sản trong cấu thành cơ bản của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là phù hợp.

Như vậy, từ những vướng mắc trên cho thấy việc quy định giá trị tài sản (định lượng) là đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là cần thiết để có thể phân biệt trường hợp chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bị coi là tội phạm với trường hợp chỉ bị coi là hành vi vi phạm pháp luật hành chính.

1.2. Vướng mắc về dấu hiệu định tội “Biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có”

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Dấu hiệu “biết rõ” là thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội, ý thức chủ quan này phải được chính người phạm tội thừa nhận bằng lời khai. Nếu đối tượng khai không biết là tài sản do người khác phạm tội mà có thì cho dù có các tài liệu khác như: Chính lời khai của đối tượng bán hoặc lời khai của người liên quan; thu được tài sản tại nhà đối tượng tiêu thụ; tài liệu thể hiện đối tượng mua tài sản với giá thấp hơn nhiều so với giá trị thật… thì vẫn không xử lý hình sự được. Theo quan điểm này, người phạm tội phải thừa nhận bằng lời khai là biết tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn chứa chấp, tiêu thụ tài sản đó thì mới được xem là phạm tội. Bởi vì, nếu người phạm tội không thừa nhận thì không có cơ sở nào để xác định người phạm tội là “biết rõ”. Trên thực tế, có nhiều trường hợp người phạm tội không thừa nhận mình “biết rõ” để trốn tránh trách nhiệm, điều này khiến cho quá trình buộc tội của cơ quan có thẩm quyền gặp nhiều khó khăn.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Dấu hiệu “biết rõ” cần được hiểu một cách toàn diện, không cứng nhắc và cần được đánh giá trên cơ sở “hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan”. Theo quan điểm này, các cơ quan tố tụng phải hiểu một cách linh hoạt cụm từ “biết rõ” dựa vào sự đánh giá hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan. Tuy nhiên, hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan ở tội này vẫn chưa được pháp luật quy định.

Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai bởi các lẽ sau:

- Về quy định pháp luật:

Việc người phạm tội “biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” đã được giải thích tại Thông tư Liên tịch 09, theo đó: “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”. Tuy nhiên, việc “có căn cứ chứng minh” là như thế nào thì Thông tư vẫn chưa nêu cụ thể. Mặt khác, trên tinh thần dựa vào Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 324 của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội rửa tiền (gọi tắt là Nghị quyết 03), Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao đã giải thích thế nào là “biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có” tại khoản 4, Điều 2, Nghị quyết này như sau:

“4. Biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có là một trong các trường hợp sau đây:

  1. Người phạm tội trực tiếp biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: người phạm tội được người thực hiện hành vi phạm tội nguồn cho biết là tiền, tài sản do họ phạm tội mà có);
  1. Qua các phương tiện thông tin đại chúng, người phạm tội biết được người khác thực hiện hành vi phạm tội nguồn (ví dụ: hành vi phạm tội của người thực hiện tội phạm nguồn đã được báo, đài phát thanh, truyền hình đưa tin);
  1. Bằng nhận thức thông thường, người phạm tội có thể biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: biết chồng là nhân viên của cơ quan nhà nước có mức lương là 08 triệu đồng/tháng và không có nguồn thu nhập khác nhưng A vẫn nhận của chồng số tiền 10 tỷ đồng để góp vốn vào doanh nghiệp mà không hỏi rõ về nguồn tiền);
  1. Theo quy định của pháp luật, người phạm tội buộc phải biết nguồn gốc tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: A mua xe ô tô của B không có giấy tờ với giá bằng một phần mười trị giá của chiếc xe đó)”.

Quy định trên hướng dẫn cụ thể về cụm từ “biết hoặc có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có”. Qua đó, ta có thể áp dụng tương tự với cụm từ “biết rõ là do người khác phạm tội mà có”. Tuy nhiên, vẫn cần có quy định trực tiếp và cụ thể về cụm từ này. Căn cứ vào đó để có thể chứng minh hành vi phạm tội của người chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có một cách dễ dàng hơn.

- Về nguyên tắc “hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan”:

Trên thực tế các cơ quan tố tụng đã vận dụng nguyên tắc này khá phổ biến để giải quyết các vụ án hình sự, đặc biệt trong các vụ án bị can không nhận tội. Khi đối phó với những đối tượng ngoan cố, không nhận tội này thì các cơ quan tố tụng cần phải có biện pháp, cách thức để đấu tranh. Biện pháp thường được cơ quan tố tụng áp dụng đó chính là việc đánh giá, sử dụng và khai thác các tài liệu, chứng cứ liên quan trong hồ sơ để chứng minh hành vi phạm tội của đối tượng, mà không phụ thuộc việc đối tượng có thừa nhận hay không thừa nhận hành vi phạm tội của mình - đây chính là hình thức biểu hiện của nguyên tắc “hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan” đang diễn ra trong thực tiễn hoạt động tố tụng hiện nay.

Qua đó, liên hệ với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, ta thấy được người phạm tội thông thường sẽ không thừa nhận việc mình biết tài sản đó do phạm tội mà có. Ví dụ: A. mua xe máy của B. không có giấy tờ, hành vi này diễn ra nhiều lần nhưng A. lại khai nhận là không biết xe của B. có nguồn gốc từ đâu. Trong trường hợp này, với nhận thức của người bình thường sẽ phải tìm hiểu về nguồn gốc xe của B. và có căn cứ cho là xe B. do phạm tội (trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản,...) mà có do xe máy là tài sản bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu. A. mua xe của B. không có giấy tờ và nhiều lần, đây là hành vi khách quan, từ đó thể hiện ý chí chủ quan của A. là biết xe của B. phạm pháp nhưng A. vẫn mua. Do đó, ta nên xác định A. phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong trường hợp này.

Ngoài ra, việc xác định ý chí chủ quan trong trường hợp mua bán xe máy do phạm tội mà có còn thể hiện ở những căn cứ sau: Tình trạng khi giao xe thì ổ khóa xe có bị phá; khi giao xe máy đối tượng bán không đưa chìa khóa xe; xe không có biển kiểm soát (có nhiều trường hợp đối tượng sau khi trộm cắp đã tháo biển xe để tránh bị phát hiện); mua xe máy không có giấy tờ; giá bán thấp hơn rất nhiều so với giá thực tế; số lần đến bán xe nhiều, tần suất liên tục; thời gian đối tượng đến bán là ban đêm… Khi có đủ căn cứ để xác định: Một đối tượng trong một thời gian ngắn mà liên tục đến bán xe máy cũ với giá rẻ, không có giấy tờ, không biển kiểm soát, xe trong tình trạng bị phá ổ khóa, khi bán xe không có chìa khóa… thì đây sẽ là các căn cứ để chứng minh ý thức chủ quan của đối tượng tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có.

2. Một số giải pháp khắc phục những vướng mắc

Từ những vướng mắc trên thực tiễn và những phân tích ở phần trên. Tác giả xin đưa ra một số giải pháp như sau:

- Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 323, Bộ luật Hình sự 2015.

Trong bối cảnh giữa Nghị định số 167 và Bộ luật Hình sự 2015 có sự chồng chéo khi cùng quy định trách nhiệm pháp lý đối với hành vi tiêu thụ tài sản dưới dạng “Cầm cố tài sản do người khác phạm tội mà có”, tác giả đề nghị cần quy định giá trị tối thiểu của tài sản được chứa chấp, tiêu thụ để làm cơ sở phân định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có để từ đó áp dụng trách nhiệm pháp lý phù hợp. Theo đó, cần bổ sung yếu tố định lượng đối với tài sản là đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có để việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội danh này phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu tài sản chứa chấp hoặc tiêu thụ có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc các trường hợp đặc biệt thì áp dụng Bộ luật Hình sự 2015 để truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngược lại, nếu giá trị tài sản chứa chấp hoặc tiêu thụ dưới 2.000.000 đồng mà không thuộc các trường hợp đặc biệt sẽ áp dụng Nghị định 167 để xử phạt vi phạm hành chính.

Việc dùng cụm từ “biết rõ” trong điều luật hiện nay chưa phù hợp. Vì “biết rõ” thể hiện sự hiểu biết ở mức độ cao. Do đó, cần thay thế bằng cụm từ có mức độ biết dễ xác định hơn như “biết hoặc có cơ sở để biết” thì sẽ phù hợp hơn. Và cũng cần có văn bản hướng dẫn cụ thể cho cụm từ “biết hoặc có cơ sở để biết” tương tự như cách hướng dẫn ở Nghị quyết 03 đối với tội rửa tiền. Vì vậy, tác giả kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền cần sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 323, Bộ luật Hình sự 2015 như sau:

Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ năm 2017)

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015

Điều 323. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Điều 323. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tien từ đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết hoặc có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có với tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

  1. Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm;
  1. Đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Việc đề xuất sửa đổi, bổ sung nội dung điều luật như trên xuất phát từ những mục đích sau:

+ Nhằm đảm bảo phân biệt tội này với trường hợp chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có chỉ là vi phạm hành chính.

+ Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự có khách thể trực tiếp là xâm phạm trật tự công cộng và nó có tính độc lập tương đối với tội phạm nguồn. Do đó, việc quy định giá trị tài sản do người khác phạm tội mà có (định lượng) trong tội phạm này ở một mức độ tối thiểu nhất định để định tội vẫn đảm bảo tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội.

- Thứ hai, ban hành các văn bản hướng dẫn mới về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Khi ban hành văn bản mới để hướng dẫn việc áp dụng thống nhất về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cần quy định theo hướng chỉ cần chứng minh ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản biết rõ (biết hoặc có cơ sở để biết) tài sản đó là do người khác phạm tội mà có không cần phải chứng minh người này biết về hành vi phạm tội của người khác để có được tài sản đó. Kết hợp với liệt kê các trường hợp “Biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có” tương tự như ở Nghị quyết 03 để có thể xác định tội phạm này một cách dễ dàng hơn.

Thông tư Liên tịch 09 và Nghị quyết 03

Văn bản hướng dẫn mới

* Thông tư Liên tịch 09

“Điều 1: Giải thích từ ngữ

2. Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”.

* Nghị quyết 03

Khoản 4 Điều 2 có nội dung như sau:

“4. Biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có là một trong các trường hợp sau đây:

  1. Người phạm tội trực tiếp biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: người phạm tội được người thực hiện hành vi phạm tội nguồn cho biết là tiền, tài sản do họ phạm tội mà có);
  1. Qua các phương tiện thông tin đại chúng, người phạm tội biết được người khác thực hiện hành vi phạm tội nguồn (ví dụ: hành vi phạm tội của người thực hiện tội phạm nguồn đã được báo, đài phát thanh, truyền hình đưa tin);
  1. Bằng nhận thức thông thường, người phạm tội có thể biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: biết chồng là nhân viên của cơ quan nhà nước có mức lương là 08 triệu đồng/tháng và không có nguồn thu nhập khác nhưng A vẫn nhận của chồng số tiền 10 tỷ đồng để góp vốn vào doanh nghiệp mà không hỏi rõ về nguồn tiền);
  1. Theo quy định của pháp luật, người phạm tội buộc phải biết nguồn gốc tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: A mua xe ô tô của B không có giấy tờ với giá bằng một phần mười trị giá của chiếc xe đó)”.

“Biết hoặc có cơ sở để biết” tài sản là do người khác phạm tội mà có là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội.

Về ý thức chủ quan, chỉ bắt buộc người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết tài sản do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có, mà không buộc người chứa chấp, tiêu thụ phải biết rõ các tình tiết liên quan đến tội phạm làm phát sinh tài sản như: Ai là người đã trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội để có được tài sản đó, độ tuổi của người thực hiện hành vi phạm tội, bị hại...

Thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  1. Người phạm tội trực tiếp biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: người phạm tội được người thực hiện hành vi phạm tội nguồn cho biết là tiền, tài sản do họ phạm tội mà có);
  1. Qua các phương tiện thông tin đại chúng, người phạm tội biết được người khác thực hiện hành vi phạm tội nguồn (ví dụ: hành vi phạm tội của người thực hiện tội phạm nguồn đã được báo, đài phát thanh, truyền hình đưa tin);
  1. Bằng nhận thức thông thường, người phạm tội có thể biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: biết chồng là nhân viên của cơ quan nhà nước có mức lương là 08 triệu đồng/tháng và không có nguồn thu nhập khác nhưng A vẫn nhận của chồng số tiền 10 tỷ đồng để góp vốn vào doanh nghiệp mà không hỏi rõ về nguồn tiền);
  1. Theo quy định của pháp luật, người phạm tội buộc phải biết nguồn gốc tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: A mua xe ô tô của B không có giấy tờ với giá bằng một phần mười trị giá của chiếc xe đó)”.
  1. Khi có đủ chứng cứ chứng minh được ý thức chủ quan của người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ biết các tài sản mà mình chứa chấp, tiêu thụ do người khác phạm tội mà có”.

Mục đích hướng dẫn như trên nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Bên cạnh đó, tác giả cũng kiến nghị TAND Tối cao có văn bản hướng dẫn về giá trị tài sản do người khác phạm tội mà có của tội này cho đồng bộ với điều luật như sau:

“Trong trường hợp người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nhiều lần hoặc có tính chất liên tục thì giá trị tài sản do người khác phạm tội mà có được tính là tổng giá trị tài sản, vật phạm pháp của các lần phạm thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu tổng giá trị tài sản, vật phạm pháp này có đủ mức quy định tại khoản 1, Điều 323, Bộ luật Hình sự thì truy cứu trách nhiệm hình về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội”.

Mục đích hướng dẫn như trên xuất phát từ cơ sở lý luận về việc xác định giá trị đối tượng tác động của tội phạm trong trường hợp phạm tội nhiều lần, tội liên tục mà trên thực tế cũng đã được TAND Tối cao hướng dẫn về xác định tài sản, vật phạm pháp trong các văn bản hướng dẫn về các tội xâm phạm sở hữu, tội đánh bạc.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

2. Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 324 của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội rửa tiền;

3. Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy;phòng, chống bạo lực gia đình;

4. Thông tư liên tịch số 09/2011/Thông tư Liên tịch-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30/11/2011 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước, VKSND tối cao, TAND Tối cao;

5. Trần Thị Ngọc Hiếu (2016), “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tại sản do người khác phạm tội mà có theo luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 9/2016, tr. 10;

6. Thái Chí Bình (2012), “Bàn thêm về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 24(232), tr. 30;

7. Trần Mạnh Hà, “Những vướng mắc trong xử lý tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và một số kiến nghị”, https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/nhung-vuong-mac-trong-xu-ly-toi-chua-chap-tieu-thu-d10-t7417.html?Page=3

new-related, truy cập ngày 09/02/2023;

8. Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TAND Tối cao thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính.