Tháp chuông chùa keo cao bao nhiêu mét

Theo hồ sơ di tích, Chùa Keo có tên chữ là "Thần Quang tự". Do chùa tọa lạc tại làng Keo (xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) nên dân gian gọi là chùa Keo.

Chùa thờ Thiền sư Dương Không Lộ (ông có pháp danh là Dương Không Lộ, húy là Minh Nghiêm, hiệu là Không Lộ, sinh năm 1016 tại hương Hải Thanh, nay là xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định). Do có công chữa bệnh cho vua Lý Thánh Tông nên được vua phong làm Quốc sư triều Lý.

Lãnh đạo địa phương và trụ trì, các bô lão tổ chức nghi lễ khai hội chùa Keo Thái Bình - Ảnh: Hoàng Long

Theo sử sách ghi lại, Chùa Keo Thái Bình có nguồn gốc từ xã Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Cụ thể, năm năm 1061, Thiền sư Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang tại làng Keo, xã Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định làm nơi tu hành.

Ngày 3/6 năm Nhâm Tuất, Thiền sư Dương Không Lộ viên tịch, hưởng thọ 79 tuổi. Để tri ơn công lớn, nghĩa dầy, năm 1667, vua Lý Anh Tông cho đổi tên chùa Nghiêm Quang thành chùa Thần Quang và tên Thần Quang tự bắt đầu có từ đó.

Rất đông nhân dân đến dự lễ hội chùa Keo - Ảnh: Hoàng Long

Chùa Thần Quang chỉ tồn tại được 500 năm, đến năm 1611 một trận hồng thủy lớn đã cuốn trôi mất ngôi chùa. Sau đó, dân làng Keo phải di cư đi nơi khác và chia làm hai làng, một làng di chuyển sang hữu ngạn sông Hồng (nay thuộc huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định), một làng di chuyển sang tả ngạn sông Hồng (nay là xã Duy Nhất, Vũ Thư, Thái Bình).

Sau đó, dân hai làng xây dựng lại chùa Thần Quang. Dể phân biệt, người dân thương gọi chùa Keo ở Thái Bình là chùa Keo Thái Bình, còn chùa Keo ở Nam Định được gọi là chùa Keo Hành Thiện.

Theo văn bia còn lưu giữ tại chùa, chùa Keo Thái Bình do quận công Hoàng Nhân Dũng thời Lê- Trịnh đứng ra khởi công, xây dựng năm 1630 và sau 28 tháng toàn bộ công trình chùa Keo hoàn thành.

Tại chùa Keo Thái Bình lưu giữ nhiều kiến trúc và văn hoá đặc sắc - Ảnh: Hoàng Long

Trải qua gần 400 năm tồn tại, qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc đáo từ thời Lê Trung Hưng thế kỷ 17 và là ngôi chùa cổ đẹp nhất Việt Nam theo lối kiến trúc "tiền Phật, hậu Thánh".

Hiện nay, toàn bộ kiến trúc chùa Keo gồm 17 công trình, với 128 gian phân bố trên diện tích hơn 2.000 m2. Đó là các công trình kiến trúc chính như: Tam quan, chùa Phật, điện thánh, gác chuông, hành lang, khu tăng xá,vườn tháp…

Đến nay, tại Chùa Keo Thái Bình còn lưu giữ được nhiều kiến trúc gỗ đặc sắc, đáng chú ý là bộ cánh cửa gian trung quan, đây là một kiệt tác chạm khắc gỗ thế kỷ 17. Trong khu chùa phật, hiện còn lưu giữ rất nhiều pho tượng có giá trị nghệ thuật cao có niên đại thế kỷ 17, 18 như các pho Tuyết Sơn, La Hán, quan thế âm Bồ Tát… Đặc biệt, tại ngôi chùa cổ gần 400 năm tuổi là Tòa gác chuông làm bằng gỗ, thiết kế ba tầng nguy nga, bề thế với chiều cao hơn 21 m, được sách kỷ lục Guiness Việt Nam ghi nhận là tháp chuông bằng gỗ cao nhất Việt Nam.

Lễ khai chỉ hội, một nghi thức cổ đặc sắc vẫn được lưu giữ tại Lễ hội Chùa Keo Thái Bình - Ảnh: Hoàng Long

Lễ hội được mở hằng năm để nhân dân trong vùng dâng hương, ngưỡng vọng, thành kính tri ân Đức Phật, Đức Thánh; tưởng nhớ công đức của Quốc sư Dương Không Lộ; các bậc tiền nhân có công hộ quốc, an dân và những người có công dựng chùa. Là dịp để quê lúa Thái Bình được đón du khách gần xa về hành lễ và thưởng ngoạn các giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc của di tích chùa Keo.

Với những giá trị riêng có, tháng 9-2012, chùa Keo được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp bằng công nhận di tích quốc gia đặc biệt; tháng 10-2017, chùa được đón nhận Bằng ghi danh Lễ hội chùa Keo là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Ông Nguyễn Công Diện, Phó Chủ tịch UBND huyện Vũ Thư (tỉnh Thái Bình), Trưởng Ban tổ chức lễ hội truyền thống chùa Keo Thái Bình mùa thu năm 2020 cho biết: Mỗi năm, chùa Keo mở hội hai lần gồm hội Xuân vào mồng 4 tháng Giêng âm lịch, hội Thu diễn ra vào trung tuần tháng 9 âm lịch với nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao mang tính dân gian, gần gũi với nét sinh hoạt của cư dân trồng lúa nước đồng bằng châu thổ sông Hồng. Ngoài việc tế lễ, rước kiệu, còn thi bơi chải trên sông và các nghi thức bơi chải cạn chầu Thánh, múa ếch vồ…

Lễ hội chùa Keo mùa thu năm 2020 diễn ra từ ngày 26 đến 31/10 (tức mồng 10 đến 15/9 âm lịch).

Theo tư liệu lịch sử, năm Tân Sửu, niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh thứ 3 (1061) đời Lý Thánh Tông dựng chùa Nghiêm Quang trên đất Giao Thuỷ (làng Keo/ấp Keo), thuộc Nam Định ngày nay. Tháng 3 năm Đinh Hợi, niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 5 (1167) đời Lý Anh Tông, chùa này được đổi tên thành chùa Thần Quang. Năm Tân Hợi (1611), một trận lụt lớn làm chùa bị trôi dạt, dân ấp Keo phải di dời đi 2 nơi: một bộ phận định cư ở phía Đông Nam - hữu ngạn sông Hồng (nay thuộc làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định); một bộ định cư ở phía Đông Bắc - tả ngạn sông Hồng (nay thuộc thôn Hành Dũng Nghĩa, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình). Như vậy, sau năm 1611, làng Keo (gốc ở Nam Định) được chia thành hai làng. Sau đó, hai làng dựng lại chùa, tên Nôm đều gọi là “chùa Keo”. Để phân biệt, dân gian thường gọi chùa Keo ở Thái Bình là Keo Thái Bình hoặc Keo trên; chùa Keo ở Nam Định là Keo Nam Định hoặc Keo dưới. Chùa Keo Thái Bình được dựng năm 1632, tên chữ là Thần Quang tự.

Ngoài chức năng thờ Phật, chùa Keo Thái Bình cũng như chùa Keo Nam Định còn là nơi thờ Thánh Dương Không Lộ và những người có có công lớn trong việc dựng chùa (Trịnh Thị Ngọc Lễ, Hoàng Nhân Dũng, Trần Thị Ngọc Duyên, Lê Hồng Quốc, Nguyễn Văn Trụ).

Trước Cách mạng tháng 8(1945), chùa Keo (Thái Bình) thường mở hội 2 lần trong một năm. Hội xuân được tổ chức ngày mùng 4 tháng Giêng, mang tính chất của một lễ hội nông nghiệp. Ngoài các nghi lễ thông thường, trong hội còn có nhiều trò đặc sắc, như thi nấu cơm, thi ném pháo, thi bắt vịt, trong đó, thi nấu cơm được coi là hoạt động trung tâm của hội. Hội tháng 9 được tổ chức vào ngày 13 đến ngày 15, gắn với ngày sinh (13/9), ngày mất (14/9) của Thánh Dương Không Lộ và một số lễ nghi gắn với Phật giáo. Cũng như nhiều lễ hội khác ở nước ta, sau Cách mạng tháng Tám, hội chùa Keo (Thái Bình) đã có một thời gian bị gián đoạn. Trong khoảng vài chục năm trở lại đây, hội chùa Keo (Thái Bình) đã được phục hồi theo như lệ cũ để phục vụ nhu cầu văn hóa của cộng đồng, tuy nhiên, một số nghi thức và trò diễn trong hội xưa đã được giản lược, cải biên để phù hợp với đời sống hiện nay.

Chùa Keo Thái Bình gồm 21 hạng mục lớn, nhỏ (154 gian). Trải qua trên 300 năm, chùa đã được tu bổ, tôn tạo nhiều lần, vào các năm 1689, 1707, 1941, 1957, 2004. Xét về quy mô, bố cục, đặc điểm và nghệ thuật kiến trúc, có thể coi chùa Keo (Thái Bình) là một trong những công trình sáng giá nhất trong hệ thống chùa dạng thức “tiền Phật hậu Thánh” cũng như dạng thức chùa “trăm gian” ở Việt Nam. Các hạng mục kiến trúc chính của di tích gồm:

Tam quan ngoại

Tam quan ngoại gồm 3 gian, hai chái, khung gỗ, 4 chân hàng cột, mái lợp ngói mũi hài. Kết cấu vì chính theo kiểu giá chiêng, kết cấu vì nách theo kiểu chồng rường. Phía trước Tam quan ngoại có 4 trụ biểu và một sân lát đá (kích thước 11,10m x 10,10m), phía sau là một hồ nước (hình vuông), bờ kè đá, diện tích khá rộng. Xung quanh hồ là hệ thống đường giao thông dẫn du khách vào khu vực Tam quan nội.

Tam quan nội

Tam quan nội ở phía sau hồ nước (hình vuông), khung gỗ, gồm 3 gian, hai chái, 3 hàng chân cột, 4 bộ vì, mái lợp ngói mũi hài. Hai vì giữa được kết cấu theo kiểu chồng rường, vì hồi được kết cấu theo kiểu kẻ chuyền. Đây là một kiến trúc khá độc đáo, nghệ thuật chạm khắc tinh xảo. Đặc biệt là bộ cửa ở vị trí trung quan, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII (Bộ cửa ở đây hiện nay là hiện vật phục chế, bộ cửa gốc hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam).

Chùa thờ Phật

Chùa thờ Phật được dựng trên mặt bằng hình chữ Công, gồm 3 toà (chùa Hộ/chùa Ông Hộ, Ống muống, Tam bảo).

- Chùa Ông Hộ: được dựng theo thức tàu đao lá mái, gồm 7 gian, kết cấu gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Khung kiến trúc gồm 6 bộ vì chính và 2 bộ vì chái bồ câu, dựng trên 4 hàng chân cột. Các cấu kiện kiến trúc được chạm khắc rất công phu, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật kiến trúc thế kỷ XVII. Trong khu vực này an vị hai tượng Hộ pháp, khám và tượng các vị từng có nhiều công lao đối với việc dựng chùa xưa kia: Hoàng Nhân Dũng, Nguyễn Văn Trụ, Trịnh Thị Ngọc Trân, Lại Thị Ngọc Lễ. Hai gian đầu hồi an vị bộ tượng Thập điện Diêm vương.

- Tòa Ống muống: khung gỗ, không có tường bao, gồm 3 gian, 4 bộ vì, 4 hàng chân cột, kết cấu vì theo dạng thức thượng giá chiêng, hạ chồng rường, mái lợp ngói mũi hài, nối liền chùa Ông Hộ và Tam bảo.. Trong không gian này có một chiếc sập thờ, mang phong cách nghệ thuật chạm khắc thời Lê Trung hưng, trên đặt bát hương ban Công đồng.

- Tòa Tam bảo: được dựng theo thức tàu đao lá mái, các bộ vì kiểu giá chiêng chồng rường, kết cấu gỗ, gồm 3 gian, không có tường bao, mái lợp ngói mũi hài. Đây là khu vực an vị hệ tượng Phật giáo.

Đền Thánh và tòa Giá roi

Đền Thánh được dựng theo dạng thức mặt bằng chữ Công, gồm 3 tòa: Thiêu hương (5 gian), Ống muống (3 gian), Thượng điện (5 gian). Phía trước đền là toà Giá roi (5 gian).

Gác chuông

Gác chuông được làm theo dạng thức chồng diêm cổ các, gồm có 3 tầng, 12 mái, khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Đây là một kiến trúc thời Lê, được đánh giá là gác chuông to, đẹp nhất Việt Nam và được chọn làm một trong những biểu tượng văn hóa của đất Thái Bình.

Hai dãy hành lang phía Đông và phía Tây

Hai dãy hành lang Đông và Tây được dựng bao quanh chùa Phật - Đền Thánh, phía trước thông qua hàng dậu và Tam quan nội, phía sau kết nối với Gác chuông, hợp thành ô chữ Quốc. Hai dãy hành lang đều được dựng trên mặt bằng hình chữ L, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói, mỗi dãy 33 gian.

Ngoài các kiến trúc chính, chùa Keo còn một số kiến trúc phụ trợ, như Khu Tăng xá, Nhà khách (phía Đông và phía Tây), trụ sở Ban Quản lý Di tích. Đặc biệt, chùa còn là nơi hiện đang lưu giữ và 197 di vật, cổ vật gắn với lịch sử hình thành và phát triển của chùa (từ thế kỷ XVII đến nay), được tạo tác từ nhiều loại chất liệu (gỗ, đá, đồng), có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc.

Với những giá trị văn hóa, lịch sử, khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Keo (huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) là Di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1419/QĐ-TTg ngày 27/09/2012).

Đạt Thức (Theo Hồ sơ xếp hạng di tích, tư liệu Cục Di sản văn hóa)

Video liên quan

Chủ đề