Sau cách mạng tư sản nước Anh thiết lập chế độ chính trị gì

Tác phẩm, tác giả, nguồn

  • Tác phẩm: Lịch sử thế giới cận đại
  • Tác giả: Vũ Dương Ninh - Nguyễn Văn Hồng
  • Nhà xuất bản Giáo dục
  • Ebook:TVE-4U.org

Xem thêm

  • Châu Phi
  • Trung Quốc
  • Mỹ Latinh
  • Triều Tiên
  • Lịch sử thế giới cận đại Phương Tây
  • Inđônêxia
  • Lịch sử thế giới cận đại Phương Đông
  • Mã Lai
  • Lịch sử thế giới cận đại
  • Philippin
Read more ...

Liên kết đến đây

  • Cách mạng công nghiệp ở Anh thế kỷ XVIII

Có thể bạn muốn xem

"Like" us to know more!

Knowledge is power

Lấy từ “//vi.kipkis.com/index.php?title=Chế_độ_chính_trị_ở_Anh_sau_cách_mạng&oldid=25995”

Cách mạng tư sản Anh

Mục a

a) Tình hình nước Anh trước cách mạng

* Nguyên nhân sâu xa:

-Kinh tế:đầu thế kỷ XVII, nền kinh tế nước Anh phát triển nhất châu Âu.

+ Nông nghiệp: phương thức sản xuất tư bản thâm nhập vào nông nghiệp.

+ Thủ công nghiệp: Sản xuất công trường thủ công chiếm ưu thế hơn sản xuất của phường hội, số lượng và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng như: luyện kim, làm sứ, len dạ.

+ Ngoại thương phát triển mạnh mẽ, chủ yếu là bán len dạ và nuôi nô lệ da đen.

-Xã hội:Nhiều địa chủ vốn là quý tộc chuyển hướng kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa lấy lông cừu để cung cấp cho thị trường => giàu lên nhanh chóng, dần dần tư sản hóa và trở thành tầng lớp quý tộc mới.

-Chính trị:

+ Chế độ phong kiến kìm hãmlực lượng sản xuấttư bản chủ nghĩa. Nhiều thứ thuế được đặt ra, nhà nước nắm độc quyền thương mại và thu thuế thuyền bè. Duy trì nhiều đặc quyền phong kiến => đời sống nhân dân cơ cực.

- Mâu thuẫn giữa tư sản, quý tộc mới với phong kiến.

* Nguyên nhân trựctiếp:xoay quanh vấn đề tài chính.

- Tháng 4-1640, Vua Saclơ I triệu tập quốc hội để tăng thuế nhằm đàn áp cuộc nổi dậy của người Xcốt-len.

- Quốc hội không phê duyệt, và công kích chính sách bạo ngược của nhà vua, đòi kiểm soát quân đội, tài chính và giáo hội.

- Saclơ I dùng vũ lực đàn áp Quốc hội, bị thất bại phải chạy lên phía BắcLuân Đôn chuẩn bị lực lượng phản công.

Mục b

b) Diễn biến của cách mạng

Lược đồ cuộc nội chiến Anh

- Năm 1642 - 1648: nội chiến ác liệt (Vua - Quốc hội)

- Năm 1649: xử tử vua, nước cộng hòa ra đời, cách mạng đạt đến đỉnh cao.

- Năm 1653-1658:Crôm - oenlập nền độc tài (một bước tụt lùi)

- Năm 1688: Quốc hội tiến hành chính biến đưa Vin-hem Ô-ran-giơ lên ngôi vua, sau đó chế độquân chủ lập hiếnđược xác lập.

Mục c

c) Ý nghĩa

- Lật đổ chế độ phong kiến mở đường chochủ nghĩa tư bảnở Anh phát triển.

- Mở ra thời kỳ quá độ từ chế độphongkiếnsang chế độ tư bản.

ND chính

Những nội dung chính về cách mạng tư sản Anh: tình hình nước Anh trước cách mạng, diễn biến, ýnghĩa.

Loigiaihay.com

  • Hãy nêu đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội Nê-đéc-lan trước cách mạng.

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 144 SGK Lịch sử 10

  • Trình bày diễn biến chính của Cách mạng Hà Lan.

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 144 SGK Lịch sử 10

  • Hãy nêu đặc điểm tình hình nước Anh trước cách mạng

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 145 SGK Lịch sử 10. Hãy nêu đặc điểm tình hình nước Anh trước cách mạng

  • Hãy nêu tính chất và ý nghĩa của Cách mạng Hà Lan.

    Giải bài tập 1 trang 145 SGK Lịch sử 10. Hãy nêu tính chất và ý nghĩa của Cách mạng Hà Lan.

  • Trình bày diễn biến và kết quả của Cách mạng tư sản Anh

    Giải bài tập 2 trang 145 SGK Lịch sử 10. Trình bày diễn biến và kết quả của Cách mạng tư sản Anh

  • Lập bảng thống kê các cuộc kháng chiến và khởi nghĩa chống ngoại xâm từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.

    Giải bài tập 1 trang 100 SGK Lịch sử 10. Lập bảng thống kê các cuộc kháng chiến và khởi nghĩa chống ngoại xâm

  • Trình bày nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

    Giải bài tập 3 trang 100 SGK Lịch sử 10

  • Nêu nguyên nhân của các cuộc chiến tranh phong kiến: Nam - Bắc triều, Trịnh - Nguyễn.

    Giải bài tập 3 trang 110 SGK Lịch sử 10. Nêu nguyên nhân của các cuộc chiến tranh phong kiến: Nam - Bắc triều,

  • Những điểm giống và khác nhau trong đời sống kinh tế, văn hoá, tín ngưỡng của cư dân Văn Lang - Âu Lạc, cư dân Lâm Ấp - Cham-pa và cư dân Phù Nam là gì ?

    Giải bài tập 4 trang 79 SGK Lịch sử 10

Nội dung lý thuyết cách mạng tư sản Anh

Nguyên nhân cách mạng tư sản Anh

Nguyên nhân diễn ra cuộc cách mạng tư sản Anh:

Nguyên nhân sâu xa

Về kinh tế, đầu thế kỷ XVII, nền kinh tế nước Anh phát triển nhất châu Âu.

  • Nông nghiệp: Phương thức sản xuất tư bản thâm nhập vào sản xuất nông nghiệp.
  • Thủ công nghiệp: Sản xuất công trường thủ công chiếm ưu thế hơn sản xuất của phường hội. Số lượng và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng lên như luyện kim, làm sứ, len dạ,…
  • Ngoại thương phát triển mạnh mẽ, chủ yếu là buôn bán len dạ và buôn nô lệ da đen.

Về xã hội, sự phân hóa tầng lớp nhân dân xuất hiện. Nhiều địa chủ vốn là quý tộc chuyển hướng kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa. Họ giàu lên nhanh chóng, dần dần tư sản hóa và trở thành tầng lớp quý tộc mới.

Về chính trị:

  • Chế độ phong kiến đã kìm hãm lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhà nước nắm độc quyền thương mại. Rất nhiều thứ thuế được đặt ra, thu thuế thuyền bè.
  • Nhiều đặc quyền phong kiến được duy trì khiến cho đời sống nhân dân thêm cơ cực.

Trước tình hình đó, mâu thuẫn giữa tư sản, quý tộc mới với phong kiến diễn ra gay gắt. Nguy cơ về một cuộc nội chiến sắp bùng nổ.

Nguyên nhân trực tiếp

Nguyên nhân trực tiếp là ngòi nổ chiến tranh xoay quanh vấn đề tài chính:

Tháng 4/1640, vua Sác-lơ I triệu tập quốc hội yêu cầu tăng thuế để đàn áp cuộc nổi dậy của người Xcốt-len ở miền Bắc nước Anh. Quốc hội không phê duyệt các khoản thuế mới, công kích chính sách bạo ngược của nhà vua và đòi quyền kiểm soát quân đội, tài chính và Giáo hội.

Sác-lơ I định dùng vũ lực đàn áp Quốc hội, song lại bị nhân dân phản đối. Bị thất bại, Sác-lơ I phải chạy lên phía Bắc Luân Đôn và chuẩn bị lực lượng để phản công.

Diễn biến của cách mạng

Sau đây là diễn biến của cuộc cách mạng tư sản Anh:

Tháng 8/1642, vua Sác-lơ Ituyên chiến với Quốc hội. Cuộc nội chiến chính thức bùng nổ, diễn ra từ năm 1642 – 1648. Phe Quốc hội được sự ủng hộ của nhân dân. Nhà vua có sự hỗ trợ từ quý tộc phong kiến và Giáo hội Anh.

Dưới áp lực của quần chúng, đầu năm 1949, Sác-lơ I bị xử tử. Anh trở thành nước cộng hòa do Crôm-oen (1599 – 1658) đứng đầu. Cuộc cách mạng tư sản Anh đạt đến đỉnh cao.

Sau đó, Crôm-oen đưa quân đi đánh Ai-len và Xcốt-len. Để bảo vệ quyền lợi, tư sản và quý tộc mới đã trao trọng trách cho Crôm-oen với tước Bảo hộ công. Nền độc tài quân sự được thiết lập (1653).

Sau khi Crôm-oen qua đời năm 1658, chính trị nước Anh lâm vào tình trạng khủng hoảng. Quốc hội thỏa hiệp với lực lượng phong kiến cũ.

Tháng 12/1688, Quốc hội tiến hành chính biến đưa Vin-hem Ô-ran-giơ (quốc trưởng Hà Lan, con rể vua Anh) lên ngôi vua. Chế độ quân chủ lập hiến được xác lập.

Ý nghĩa cách mạng tư sản Anh

Cuộc cách mạng tư sản Anh đã lật đổ chế độ phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở Anh. Đây là một cuộc cách mạng tư sản có ý nghĩa quan trọng, mở ra thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ tư bản.

Xem thêm:

  • Cách mạng tư sản là gì? 6 cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu
  • Cách mạng tư sản Hà Lan và các câu hỏi liên quan Lịch sử 10

Một số cuộc cách mạng tư sản tiêu biểuSửa đổi

  • Cách mạng tư sản Hà Lan
  • Cách mạng tư sản Anh
  • Cách mạng tư sản Pháp
  • Cách mạng tư sản ở Bắc Mỹ
  • Cách mạng Tân Hợi
  • Cách mạng Thiên hoàng Minh Trị

Chú thích & tham khảoSửa đổi

  1. ^ PGS.TS. Phạm, Hùng Việt (2005). Từ điển bách khoa Việt Nam. Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

Mục lục

  • 1 Nguyên nhân
    • 1.1 Tình hình kinh tế
    • 1.2 Tình hình chính trị xã hội
  • 2 Hội nghị đại diện các Đẳng cấp năm 1789
  • 3 Quốc hội
  • 4 Quốc hội lập hiến
    • 4.1 Đột chiếm ngục Bastille
    • 4.2 Bãi bỏ chế độ phong kiến
    • 4.3 Loại bỏ ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Roma
    • 4.4 Sự hình thành các đảng phái
    • 4.5 Đến một hiến pháp
    • 4.6 Tiến đến Bộ luật dân sự cho giới tu sĩ
    • 4.7 Từ sự kiện kỷ niệm ngày phá ngục Bastille đến cái chết của Mirabeau
    • 4.8 Cuộc đào tẩu Varennes
    • 4.9 Những ngày cuối cùng của Quốc hội lập hiến
  • 5 Quốc hội lập pháp và sự sụp đổ của nền Quân chủ
    • 5.1 Quốc hội
    • 5.2 Chiến tranh
    • 5.3 Nền lập hiến bị khủng hoảng
  • 6 Quốc ước
    • 6.1 Sự thống trị của phái Girondin
    • 6.2 Phái Jacobin nắm quyền
  • 7 Chế độ Đốc chính
  • 8 Ảnh hưởng
    • 8.1 Đối với nước Pháp
    • 8.2 Đối với thế giới
  • 9 Chú thích
  • 10 Tham khảo
  • 11 Xem thêm

Nguyên nhânSửa đổi

Bài chi tiết: Nguyên nhân của cuộc Cách mạng Pháp

Tình hình kinh tếSửa đổi

Cuối thế kỷ XVIII, Pháp vẫn là một nước nông nghiệp. Công cụ và phương thức canh tác thô sơ, lạc hậu, ruộng đất bỏ hoang nhiều, năng suất thu hoạch rất thấp. Dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông. Nông dân nhận ruộng đất của lãnh chúa để cày cấy và phải phục vụ, nộp địa tô cao cho các lãnh chúa. Đời sống nông dân ngày càng khốn quẫn bởi sự bóc lột đến cùng cực của lãnh chúa phong kiến và Giáo hội. Nạn đói thường xuyên xảy ra.

Công thương nghiệp phát triển, máy móc được sử dụng ngày càng nhiều, đặc biệt trong công nghiệp dệt, khai khoáng, luyện kim với những xí nghiệp tập trung hàng nghìn công nhân. Ngoại thương cũng có những bước tiến mới, các công ty thương mại Pháp buôn bán với nhiều nước ở châu Âu và phương Đông. Công thương nghiệp Pháp thời kì này đã phát triển, tập trung ở các vùng ven Địa Trung Hải và Đại Tây Dương. Nhưng chế độ phong kiến chuyên chế đã cản trở sự phát triển của công, thương nghiệp: thuế má nặng, không có đơn vị tiền tệ đo lường thống nhất, sức mua của dân nghèo rất hạn chế.

Tình hình chính trị xã hộiSửa đổi

1 ecu bạc của Pháp, mặt trước là chân dung vua Louis XVI, đúc năm 1784

Đến cuối thế kỉ XVIII, nước Pháp vẫn duy trì chế độ quân chủ chuyên chế (đứng đầu là vua Louis XVI). Xã hội chia thành ba đẳng cấp: Tăng lữ, Quý tộc và Đẳng cấp thứ ba. Hai đẳng cấp đầu tuy chỉ chiếm số ít trong dân cư, nhưng được hưởng mọi đặc quyền, đặc lợi, không phải nộp thuế, có nhiều bổng lộc và giữ những chức vụ cao trong chính quyền, quân đội và Giáo hội. Do vậy, họ muốn duy trì quyền lực của phong kiến và không muốn thay đổi chế độ chính trị. Đẳng cấp thứ ba gồm nhiều giai cấp và tầng lớp: tư sản, nông dân, bình dân thành thị. Họ phải chịu mọi thứ thuế và nghĩa vụ, song không có quyền lợi chính trị và bị lệ thuộc vào những đẳng cấp có đặc quyền. Như vậy, đến cuối thế kỉ XVIII, do mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế và địa vị chính trị giữa Đẳng cấp thứ ba với đẳng cấp Tăng lữ và Quý tộc, nước Pháp lâm vào cuộc khủng hoảng xã hội sâu sắc, báo hiệu một cuộc cách mạng đang đến gần.

Sau cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756–1763), nền quân chủ Pháp suy thoái nghiêm trọng, trong khi những liệt cường phía Đông là Nga, Phổ và Áo lại phát triển lớn mạnh, trong khi Anh đã vươn lên trở thành đối thủ khó ưa của Pháp.[4][5] Nhiều yếu tố dẫn tới cuộc cách mạng; về một số mặt chế độ cũ không còn chống đỡ nổi tính cứng nhắc của chính nó đối diện với một thế giới đang thay đổi; một số mặt khác, nó rơi vào những tham vọng của một tầng lớp trưởng giả đang nổi lên, cộng với sự lo lắng của những người nông dân, người làm công ăn lương, và các cá nhân ở mọi tầng lớp đang chịu ảnh hưởng từ những tư tưởng của thời đại Khai sáng. Khi cách mạng diễn ra và khi quyền lực được trao từ tay triều đình cho các thể chế luật pháp, những xung đột quyền lợi của các nhóm liên minh ban đầu đó đã trở thành nguồn gốc của xung đột và đổ máu.

Chắc chắn, các nguyên nhân của cách mạng phải bao gồm tất cả những điều sau:

  • Sự oán giận đối với chế độ quân chủ chuyên chế đương thời.
  • Sự oán giận đối với hệ thống lãnh chúa từ phía những người nông dân, làm công ăn lương, và ở một mặt rộng hơn cả của tầng lớp trưởng giả.
  • Sự nổi lên của các tư tưởng của thời đại ánh sáng.
  • Nợ quốc gia không thể kiểm soát nổi, có nguyên nhân từ việc tăng thêm gánh nặng của một hệ thống thuế rất lớn.
  • Sự thiếu thốn thức ăn vào những tháng ngay trước khi cách mạng nổ ra.[6]
  • Sự oán giận đối với tầng lớp quý tộc đặc quyền và sự thống trị đối với cuộc sống công cộng từ phía những tầng lớp chuyên nghiệp đầy tham vọng.
  • Ảnh hưởng của Cách mạng Hoa Kỳ.

Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền.

Hoạt động tiền cách mạng đã bắt đầu khi vua Louis XVI của Pháp (trị vì từ 1774–1792) đối mặt với một cuộc khủng hoảng tài chính hoàng gia. Nhà vua Pháp, về mặt tài chính cũng là quốc gia Pháp, có những món nợ rất lớn. Trong thời vua Louis XV (trị vì từ 1715–1774) và Louis XVI nhiều bộ trưởng, gồm cả Nam tước Turgot (Bộ trưởng Tài chính 1774–1776) và Jacques Necker (Bộ trưởng Tài chính 1777–1781), đều không thành công trong việc đưa ra cải cách nhằm biến hệ thống thuế của Pháp trở nên đồng đều hơn. Các biện pháp đó luôn bị phản đối từ phía "hội đồng nhà vua" (tòa án), dân "quý tộc", vốn tự coi mình là những người bảo vệ quốc gia chống lại chế độ chuyên quyền, cũng như khỏi các bè phái của triều đình và cả các bộ trưởng mất chức. Charles Alexandre de Calonne, người đã trở thành Bộ trưởng Tài chính năm 1783, theo đuổi một chiến lược chi tiêu minh bạch, coi đó là phương tiện để thuyết phục những ông chủ nợ tiềm tàng về sự đáng tin cậy và ổn định của nền tài chính Pháp.

Tuy nhiên, Calonne, từ lâu đã theo dõi tình hình tài chính của Pháp, đã quyết định rằng nó vẫn có thể cứu vãn được và đưa ra một loại thuế đất đai thống nhất coi đó là phương tiện để đưa tài chính Pháp vào khuôn khổ về dài hạn. Trước mắt, ông hy vọng rằng một sự biểu thị ủng hộ từ phía Hội đồng quý tộc được chọn lọc kỹ lưỡng sẽ lấy lại được lòng tin vào tài chính Pháp, cho phép vay mượn thêm cho tới khi thuế đất đai mang lại hiệu quả và bắt đầu trả nợ.

Mặc dù Calonne đã thuyết phục nhà vua về sự cần thiết của những cải cách của ông, Hội đồng quý tộc đã từ chối tán thành các biện pháp của ông, đòi hỏi rằng chỉ một chỉ một cơ cấu đại diện thực sự; tốt nhất là États Généraux (Hội nghị các Đẳng cấp) của vương quốc, mới có thể thông qua luật thuế mới. Nhà vua, thấy rằng chính Calonne là một trở ngại đã cách chức ông và thay bằng Étienne Charles de Loménie de Brienne, vị Tổng giám mục Toulouse, người sau này là lãnh đạo phe đối lập trong Quốc hội. Brienne lúc ấy đã có được vị trí mở rộng để tiến hành cải cách, trao cho dân chúng nhiều quyền dân sự (gồm cả tự do tôn giáo với phái Tin lành), và hứa hẹn triệu tập hội nghị đại diện các đẳng cấp trong năm năm, nhưng trong lúc ấy ông cũng cố gắng thúc đẩy các kế hoạch của Calonne. Khi các biện pháp này được đưa ra trước "Hội đồng Nhà vua" tại Paris (một phần cũng phải nhờ đến sự không lịch thiệp của nhà vua), Brienne phản đối, gắn sức giải tán toàn bộ Hội đồng và thu thêm các loại thuế mà không cần quan tâm tới họ. Điều này đã dẫn tới một sự phản ứng rộng lớn từ nhiều nơi trong đất Pháp, gồm cả "Ngày của những viên ngói" nổi tiếng ở Grenoble. Thậm chí quan trọng hơn, sự hỗn loạn khắp đất nước đã làm các nhà cho vay ngắn hạn, mà ngân khố Pháp phải phụ thuộc vào và từng ngày một phải thuyết phục họ ngừng rút các khoản nợ, đưa lại một tình trạng gần như phá sản buộc Louis và Brienne phải đầu hàng.

Ngày 8 tháng 8 năm 1788, nhà vua đồng ý triệu tập hội nghị bất thường États Généraux vào tháng 5 năm 1789 – lần đầu tiên kể từ 1614. Brienne từ chức vào ngày 25 tháng 8 năm 1788, Necker một lần nữa lại gánh vác trọng trách tài chính quốc gia. Ông đã sử dụng vị trí của mình để đề xuất các cải cách mới, nhưng chỉ để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ của các đại diện quốc gia.

Hội nghị đại diện các Đẳng cấp năm 1789Sửa đổi

Bài chi tiết: Hội nghị các đẳng cấp năm 1789

Việc kêu gọi triệu tập Hội nghị các Đẳng cấp dẫn tới sự gia tăng lo ngại từ phía đối lập rằng chính phủ sẽ cố gắng triệu tập một hội nghị với thành phần có lợi cho họ. Nhằm tránh tình trạng này, "Hội đồng Nhà vua" của Paris, vốn đã trở về vai trò quyền lực tại thành phố trong thắng lợi, tuyên bố rằng Hội nghị phải được triệu tập theo những cách thức đã được tiến hành như ở lần Hội nghị trước. Mặc dầu có vẻ rằng các thành viên Hội đồng Paris không nhận thức đầy đủ về "những cách thức năm 1614" khi họ đưa ra quyết định này, nhưng nó đã gây nên một sự xáo động. Hội nghị năm 1614 bao gồm số lượng đại biểu ngang nhau từ mỗi đẳng cấp, và trật tự là, Đẳng cấp thứ nhất (tăng lữ), Đẳng cấp thứ hai (quý tộc), và Đẳng cấp thứ ba (bao gồm tầng lớp Đại tư sản, tư sản công thương, tiểu tư sản và các tầng lớp nhân dân nghèo) và mỗi đẳng cấp (toàn thể tất cả các đại biểu thuộc đẳng cấp đó) được bầu một phiếu. Hầu như ngay lập tức "Ủy ban Ba mươi", một tổ chức những người Paris tự do, đa số là quý tộc, bắt đầu kích động chống lại nó, đòi phải tăng gấp đôi Đẳng cấp thứ ba và bầu theo đầu phiếu (như đã từng được thực hiện ở nhiều hội đồng địa phương). Hội đồng Nhà vua tại Paris nhanh chóng phản công lại, tuyên bố rằng chỉ các quy trình bầu cử; những người được ủy quyền được bầu cử bởi những "Quan án quản hạt" và "hội đồng nhà vua" tại các địa phương chứ không phải bởi các tỉnh; mới cần được quyết định bởi kiểu năm 1614. Necker, thay mặt cho chính phủ, cuối cùng đi đến kết luận là Đẳng cấp thứ ba cần phải được tăng lên gấp đôi, nhưng vấn đề bầu theo đầu phiếu vẫn phải để lại cho Hội nghị tự giải quyết. Nhưng những sự oán giận từ cuộc tranh cãi đó vẫn còn rất lớn, và những cuốn sách mỏng, như của Abbé Sieyès Đẳng cấp thứ ba là gì, tuyên truyền rằng các đẳng cấp được ưu tiên là những kẻ ăn bám và rằng chính các đại biểu của Đẳng cấp thứ ba mới là đại diện quốc gia, làm cho những sự oán giận đó vẫn tồn tại.

Khi Hội nghị được triệu tập ở Versailles vào ngày 5 tháng 5 năm 1789, những bài phát biểu dài của Necker và Lamoignon, người giữ các con dấu, không hướng dẫn được gì nhiều cho các đại biểu, họ lại phải quay lại các cuộc họp nhóm để ủy nhiệm cho các thành viên của mình. Vấn đề bầu cử theo đầu phiếu hay theo đẳng cấp không được đặt ra, nhưng các đại biểu Đẳng cấp thứ ba lúc ấy yêu cầu lá phiếu của một đẳng cấp chỉ có giá trị khi đại diện cho toàn thể các đại biểu của đẳng cấp đó tại Hội nghị. Tuy nhiên, những cuộc thương lượng giữa các đại biểu tại Hội nghị của các đẳng cấp thứ nhất và thứ hai để hoàn thành việc này không mang lại kết quả, vì chỉ có một đa số không đáng kể tăng lữ và đa số lớn hơn các quý tộc tiếp tục ủng hộ việc bầu cử theo đẳng cấp.

Video liên quan

Chủ đề