Quyền con người là giá trị chung của nhân loại

Cách đây 72 năm, ngày 10-12-1948, với việc thông qua Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền (Tuyên ngôn), Liên hợp quốc đã công bố bản thỏa thuận pháp lý quốc tế đầu tiên về quyền con người. Đây là một bước tiến quan trọng của cộng đồng nhân loại khi xác định “phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng bất di bất dịch của tất cả các thành viên trong gia đình loài người là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới”. Xác định đó có được bởi cộng đồng nhân loại đều thấy rằng: “sự coi thường và xâm phạm các quyền con người dẫn đến những hành vi man rợ, xúc phạm tới lương tâm nhân loại, và việc tạo lập một thế giới trong đó con người sẽ được hưởng tự do ngôn luận, tín ngưỡng và tự do thoát khỏi nỗi sợ hãi và đói nghèo đã được tuyên bố như là khát vọng cao cả nhất của những người dân bình thường”... Dù là văn bản có tính khuyến nghị, cam kết về chính trị - đạo đức hơn là ràng buộc về chính trị - pháp lý, Tuyên ngôn cũng đưa ra những tiêu chí để đánh giá hành động của các chính phủ trong phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm quyền con người, đấu tranh với hành vi lạm dụng quyền lực, bạo lực để chà đạp lên nhân phẩm, tính mạng, tương lai của con người…

Nhìn từ lịch sử, ngay từ đầu các nội dung liên quan nhân quyền đã được khẳng định trong chiến lược của cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo. Cương lĩnh Chính trị năm 1930 của Đảng xác định trong các mục tiêu đấu tranh vì xã hội mới có nội dung: xây dựng xã hội nam nữ bình quyền, phổ cập giáo dục, lấy ruộng đất của đế quốc chia cho dân cày nghèo. Tháng 9-1945, khi đất nước đứng trước vô vàn khó khăn, vừa trải qua nạn đói khủng khiếp, 95% dân số không biết chữ, lại phải đối phó “thù trong, giặc ngoài”,… song Nhà nước non trẻ vẫn triển khai kế hoạch “chống nạn mù chữ” trong toàn dân, coi đó là nhiệm vụ cấp bách, như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Khát vọng độc lập dân tộc và nhân quyền thể hiện rất cụ thể khi Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời các nhà báo nước ngoài năm 1946: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Việc nhân quyền được khẳng định là một mục tiêu của cách mạng đã góp phần cực kỳ quan trọng tạo ra động lực để dù khó khăn thế nào thì toàn Đảng, toàn dân Việt Nam vẫn nỗ lực vượt qua, giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Thành quả vĩ đại nhất của nỗ lực đó là giành lại và bảo vệ quyền tự quyết dân tộc, đất nước độc lập và thống nhất, tạo dựng tiền đề vững chắc để phổ cập nhân quyền trong toàn dân. Nên hơn ai hết, mọi người Việt Nam yêu nước đều hiểu rất rõ rằng, đem xương máu để giành lại độc lập tức là giành lại quyền làm người - giá trị cao cả, thiêng liêng và cần phải tiếp tục bảo vệ, phát triển.

Từ năm 1975 đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định nhân quyền là nội dung có tính pháp lý, phải liên tục được phát triển, bổ sung, hoàn thiện. Phản ánh kết quả nhận thức khoa học, tiên tiến, văn minh về nhân quyền, Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ đã tiếp cận nhân quyền theo cả chiều rộng, chiều sâu, với các nội dung phù hợp mục tiêu phát triển của Việt Nam, phù hợp nhận thức chung của nhân loại tiến bộ. Biểu hiện cụ thể là trong Hiến pháp năm 2013, sau Chương I “Chế độ chính trị” là Chương II “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” mở đầu bằng Điều 14 khẳng định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Và khẳng định đó được cụ thể hóa trong quy định của Hiến pháp về quyền con người, kết hợp với việc Quốc hội thông qua các bộ luật và luật liên quan để bảo đảm nhân quyền được thực thi nghiêm túc.

Sự ưu việt nói trên có được do Đảng và Nhà nước ta luôn nỗ lực nhận thức, hoàn thiện quan điểm nhất quán về nhân quyền. Với vai trò chính đảng tiên phong, tổ chức, lãnh đạo cách mạng Việt Nam, một trong năm bài học kinh nghiệm lớn Đảng rút ra từ hoạt động thực tiễn phong phú, được khái quát trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh - bổ sung, phát triển năm 2011): “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”, khẳng định xã hội mới phải: “do nhân dân làm chủ... con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện... các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo...”. Và Chỉ thị 12 Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta của Ban Bí thư (Khóa VII) xác định “Quyền con người là giá trị chung của nhân loại. Đó là thành quả đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới chống lại mọi áp bức, bóc lột”. Từ sự phân tích biện chứng về tiến trình lịch sử của vấn đề nhân quyền, Chỉ thị 12 chỉ rõ: “giải phóng con người (trong đó có việc đảm bảo các quyền con người) gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội; chỉ có dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới có điều kiện được đảm bảo rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất”. Các luận điểm đó cho thấy Đảng có quan niệm hết sức khoa học, đúng đắn khi đặt nhân quyền trong quan hệ biện chứng với độc lập dân tộc, với bản chất chế độ xã hội. Vì, chỉ có giải quyết có hiệu quả quan hệ đó mới có thể duy trì sự thống nhất xã hội, bảo đảm để mọi người được phát triển tự do, hài hòa, phát huy mọi khả năng sáng tạo.

Với Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam, nhân quyền không chỉ thể hiện qua quan niệm, chủ trương, chính sách mà còn thể hiện qua hành động thiết thực để nhân quyền thật sự trở thành giá trị xã hội, là tài sản của nhân dân. Sau hơn 30 năm của sự nghiệp đổi mới, những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Chính phủ về nhân quyền được cụ thể hóa sinh động với tính cách là những tiêu chí sống, được hiện thực hóa qua các giá trị vật chất - tinh thần toàn dân được thụ hưởng. Từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, từ nỗ lực của toàn dân, ngày nay mức sống từ thành thị tới nông thôn đã nâng cao rất rõ rệt. Nhà nước chú trọng phát triển hệ thống giao thông, lưới điện quốc gia. Các chương trình xóa đói, giảm nghèo đạt hiệu quả cao, từng bước đưa cuộc sống và sự phát triển văn hóa - văn minh của đồng bào vùng sâu, vùng xa theo kịp mọi miền. Phúc lợi, an sinh xã hội trở thành tài sản chung của toàn dân. Giáo dục các cấp phát triển trên địa bàn cả nước, việc học tập để nâng cao tri thức, phát triển trí tuệ, thể chất được khuyến khích đối với mọi lớp tuổi, mọi thành phần, một xã hội học tập đã bước đầu hình thành. Đặc biệt, từ quan điểm coi tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện để công dân theo tín ngưỡng, tôn giáo sống “tốt đời đẹp đạo”, niềm tin tôn giáo được tôn trọng cùng quyền lợi, trách nhiệm xã hội. Đồng bào các dân tộc ít người luôn được bảo đảm quyền công dân, được Nhà nước quan tâm chăm lo, đầu tư phát triển, để vừa giữ gìn bản sắc văn hóa riêng, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển chung trên cả nước. Cùng với đó là sự phát triển rất mạnh mẽ của hệ thống y tế, hệ thống bưu điện, hệ thống thông tin đại chúng... Điển hình nhất gần đây là nỗ lực của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các cơ quan hữu quan trong việc phòng, chống đại dịch Covid-19 để bảo vệ tính mạng con người, hạn chế đến mức thấp nhất tác hại của đại dịch. Hay trong đợt thiên tai, bão lụt vừa qua, Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các cơ quan hữu quan đã cùng toàn dân nỗ lực hết sức mình với quyết tâm chính trị ở mức cao nhất, bằng rất nhiều giải pháp từ chủ trương, chính sách đến huy động nguồn lực, sức người, sức của để phòng, chống thiên tai, khắc phục mọi khó khăn, tổ chức cứu trợ, cứu nạn, bảo vệ tính mạng con người, giúp nhân dân vùng bị bão lụt sớm ổn định cuộc sống…

Những thành tựu về nhân quyền mà chúng ta đã đạt được là bằng chứng cho thấy Việt Nam đã phát triển theo chiều hướng rất tích cực, và được dư luận thế giới công nhận. Đó là những thành tựu không thể phủ nhận. Và dù đất nước còn nhiều khó khăn thì những thành tựu này vẫn là biểu hiện cụ thể của việc thực thi nhân quyền. Vì thế để tiếp tục sự nghiệp Đổi mới, chúng ta cần tiếp tục khẳng định và tiếp tục nỗ lực phấn đấu để nhân quyền luôn là bộ phận cấu thành bản chất của chế độ, là mục tiêu của cách mạng, là một điều kiện tiên quyết để xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Lịch sử dân tộc hơn nửa thế kỷ qua đã chứng minh lô-gích tất yếu rằng các thế hệ đi trước đã hy sinh xương máu để giành lại chủ quyền và nhân quyền, ngày nay chúng ta có trách nhiệm phải giữ vững chủ quyền, phải làm cho nhân quyền trở thành tài sản chung của toàn dân, tạo cơ hội để mọi người cùng phát triển. Chính vì vậy, chúng ta cần phấn đấu mạnh mẽ hơn nữa để đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam tới các thành tựu mới, để một ngày không xa, mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trở thành hiện thực sống động trên đất nước Việt Nam.

ANH MINH và HÀ LÊ

Quyền con người, quyền công dân là những yếu tố cơ bản, nền tảng của một xã hội dân chủ, văn minh. Đây là vấn đề luôn dành sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước và trên thế giới. Trong lịch sử ra đời và phát triển của nhân loại, có nhiều quan niệm về quyền con người được tiếp cận, xem xét và đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như: Chính trị học, Triết học, Luật học, Văn học …. Chúng ta thấy rằng lịch sử ra đời và phát triển khoa học pháp lý của các nước trên thế giới, quyền con người bao gồm tổng hợp nhiều quyền năng cụ thể, phụ thuộc vào các quy định của pháp luật ở mỗi quốc gia.

Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, quan niệm về quyền con người đã hình thành từ rất sớm, kể từ khi xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp thì một trong những mục tiêu và động lực của các cuộc đấu tranh giai cấp đó chính là vấn đề quyền con người. Đó là kết quả của cuộc đấu tranh không ngừng của toàn nhân loại vươn tới những lý tưởng cao đẹp, đấu tranh giải phóng con người nhằm xây dựng một xã hội thực sự công bằng, dân chủ, nhân đạo.

Ngày 10 tháng 12 năm 1948, bản “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người” của Liên Hợp Quốc là văn bản đầu tiên của nhân loại đã công nhận con người có các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là mục tiêu lý tưởng chung nhất mà các quốc gia, dân tộc trên thế giới cần phải đạt tới và là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình thế giới. Đồng thời, đây còn là văn kiện quan trọng nhất trong vấn đề quyền con người, đã trở thành nguồn gốc của mọi luận chứng, suy tư và đấu tranh cho quyền con người trên thế giới.

Trong phạm vi của mỗi quốc gia trên thế giới, các quy định bảo đảm quyền con người được thể hiện thông qua việc ghi nhận các quyền con người trong Hiến pháp và pháp luật nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn và tôn trọng những quyền cơ bản của con người khi tham gia các hoạt động của đời sống xã hội. Vì vậy, hiện nay quyền con người đã được ghi nhận, khẳng định trong Hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới.

Ở Việt Nam, sau thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 và giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Ngày 02 tháng 9 năm 1945, văn kiện có tính lịch sử trên phương diện quốc tế về quyền con người đã được ra đời, đó là Bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt nam dân chủ cộng hòa. Kể từ đó, vấn đề quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tiếp tục được ghi nhận trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tại Điều 14, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ bảo đảm theo Hiến và pháp luật”.

Nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến quyền con người, trên thế giới và ở nước ta đã xuất hiện rất nhiều học giả, công trình khoa học khác nhau nghiên cứu về quyền con người và bảo vệ quyền con người, tuy nhiên, do có sự khác nhau trong quá trình tiếp cận và quan điểm về vấn đề lý luận của quyền con người dẫn đến đã có rất nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về vấn đề này. Theo Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc thì quyền con người “là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại các hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”.

Còn theo Tiến sĩ Chu Hồng Thanh trong bài viết “Các quan niệm khác nhau về nhân quyền trong thế giới hiện đại thì cho rằng: Nhân quyền là khả năng tự nhiên và khách quan của con người, với tư cách là thành viên xã hội, con người được bảo đảm bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế về các giá trị cao quý của con người…

Theo tác giả Nguyễn Quang Hiền thì: Quyền con người là các khả năng của con người được bảo đảm bằng pháp luật về sử dụng và chi phối các phúc lợi xã hội, các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng quyền tự do trong xã hội trong phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt động của mình và của người khác trên cơ sở pháp luật.

Như vậy, cho đến nay vẫn còn tồn tại các quan niệm, cách nhìn nhận khác nhau về quyền con người trong mọi xã hội, mọi giai đoạn lịch sử, bởi vì quyền con người là những giá trị thiêng liêng, cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ, là vấn đề không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ và phát triển của thế giới hiện nay.

Thông qua việc nghiên cứu các quan điểm, quan niệm về quyền con người qua các văn bản pháp lý và các nhà khoa học trong nước và trên thế giới, có thể hiểu khái niệm về quyền con người như sau: “Quyền con người là các khả năng của con người được bảo đảm bằng pháp luật về những giá trị cơ bản nhất của mỗi con người, bao gồm các giá trị về nhân phẩm, tự do, lợi ích cơ bản của con người; bình đẳng và phổ biến giữa mọi cá nhân trong xã hội, được áp dụng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và được bảo đảm bởi hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế”.

Xem thêm: Bất khả xâm phạm là gì? Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân?

Ngoài ra, bạn có thể tham khảo quan điểm thứ 2 về quyền con người như sau:

Quyền con người một thuật ngữ pháp được sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia chưa một định nghĩa chính thức về quyền con người chỉ dừng lại việc liệt các quyền con người. Chính vậy, các nhà nghiên cứu về nhân quyền luật học đã nhiều cách tiếp cận khác nhau để đưa ra định nghĩa về quyền con người. Theo một tài liệu thống của Liên hợp quốc, đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố, tuy nhiên chưa một định nghĩa nào bao hàm được tất cả thuộc tính của quyền con người

Được biết đến nhiều nhất khái niệm quyền con người của Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc . Theo khái niệm này Quyền con người những bảo đảm pháp toàn cầu (universal legal guarantees) tác dụng bảo vệ các nhân các nhóm chống lại hành động (action) hoặc sự bỏ mặc (omissions) làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) tự do bản (fundamental freedoms) của con người. Ngoài ra, một khái niệm khác hay được các nhà nghiên cứu đề cập đến: ... quyền con người những sự được phép (entitlements) tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị hội... đều ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ họ con người. Định nghĩa này phù hợp với cách hiểu thông thường về quyền con người

Việt Nam, một số chuyên gia quan nghiên cứu cũng đã đưa ra nhiều cách hiểu về quyền con người: Trung tâm nghiên cứu quyền con người của Viện Nghiên cứu khoa học hội đã tiếp cận khái niệm quyền con người dưới góc độ pháp : Quyền con người những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người được pháp luật công nhận, điều chỉnh, do nhân con người nắm giữ trong mối liên hệ với những nhân con người khác; Trong Từ điển Luật học, quyền con người Quyền của thành viên trong hội loài người, quyền của tất cả mọi người, đó nhân phẩm, nhu cầu lợi ích năng lực của con người thể chế hóa trong pháp luật quốc tế pháp luật quốc gia; v.v..

Các định nghĩa trên không hoàn toàn giống nhau nhưng xét chung lại, quyền con người thường được hiểu những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn khách quan của con người được ghi nhận bảo vệ trong pháp luật quốc gia các thỏa thuận pháp quốc tế. Quyền con người luôn mối liên hệ gần gũi với pháp luật bởi hầu hết những nhu cầu vốn , tự nhiên của con người không thể được đảm bảo đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật thông qua đó, nghĩa vụ tôn trọng thực thi các quyền trở thành những quy tắc xử sự chung, hiệu lực bắt buộc thống nhất với tất cả mọi chủ thể trong hội chứ không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức. Như vậy, nhìn góc độ nào, quyền con người cũng được xác định những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận tuân thủ. Đó những giá trị cao cả cần được tôn trọng bảo vệ trong hội mọi giai đoạn lịch sử.