Quốc tế cộng sản thành lập năm nào

Trong lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Quốc tế Cộng sản - Quốc tế III - chỉ tồn tại hơn 20 năm. Song, đó là sự kế tục xứng đáng sự nghiệp vĩ đại của Quốc tế I và những truyền thống tốt đẹp của Quốc tế II; đồng thời, những giá trị do Quốc tế Cộng sản mang lại luôn trường tồn, không thể bác bỏ.

Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tháng 12 năm 1920. (Ảnh: Tư liệu)

Năm nay, nhân dân Việt Nam và những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới kỷ niệm 95 năm Ngày Quốc tế Cộng sản (QTCS) - Quốc tế III - ra đời và tiếp tục khẳng định những giá trị đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế (PTCS&CNQT). Cũng như nhiều năm qua, vào thời điểm này, các thế lực thù địch với CNXH lại rùm beng “điệp khúc”: QTCS đã chết cùng với sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu. Trong số đó, không ít người vốn đã từng là đảng viên Đảng Cộng sản (ĐCS), trưởng thành trong PTCS&CNQT, nay cho rằng mình đã “lầm đường, lạc lối”. Còn đối với những người cộng sản chân chính, QTCS không chỉ hồi sinh, mà vẫn đang chứng tỏ tính tất yếu, sự lan tỏa và sức sống mãnh liệt của nó trong thế giới đương đại.

Cần thấy rằng, lịch sử ra đời và tồn tại của QTCS cũng đồng thời là lịch sử của cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ để khẳng định, bảo vệ và phát huy những giá trị của Học thuyết Mác trong thực tiễn. Ngay sau khi Ph. Ăng-ghen qua đời, các phần tử cơ hội, xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác đã lên nắm quyền lãnh đạo Quốc tế II. Chúng đòi “hạ bệ chủ nghĩa Mác”, thay vào đó là hệ tư tưởng tư sản và đẩy mạnh tuyên truyền luận thuyết về “hòa bình giai cấp” - hệ tư tưởng phản động trong phong trào cộng sản; chủ trương đưa thuyết “CNTB hòa bình nhập vào CNXH”,... Đồng thời, chúng công khai đứng về phía giai cấp tư sản, ủng hộ cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa, chống lại những người bôn-sê-vích,… V.I. Lê-nin đã nhận ra điều đó và thấy cần thiết phải đập tan “ảo tưởng của bọn cơ hội, xét lại”, thành lập một tổ chức quốc tế mới. Từ những năm 1915 - 1916, trong các hoạt động của mình, V.I. Lê-nin đã chú ý đến việc tập hợp những người cách mạng chân chính để đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, chống chiến tranh đế quốc, đòi hòa bình, giải phóng dân tộc; đưa PTCS&CNQT đi đúng con đường cách mạng XHCN. Đầu năm 1918, Hội nghị đại biểu của 8 đảng mác-xít chân chính (gồm Nga, Ba Lan, Hung-ga-ri, Đức, Áo, Lát-vi-a, Phần Lan và Liên hiệp cách mạng Ban-căng) đã đưa ra những quyết nghị quan trọng: thông qua Lời kêu gọi gồm 15 điểm, trình bày đường lối của phong trào cách mạng thế giới, sự cấp thiết phải thành lập QTCS để lãnh đạo PTCS&CNQT trong thời kỳ cách mạng vô sản và đấu tranh giải phóng dân tộc; chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại đang cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác.

Đầu tháng 3-1919, Đại hội thành lập QTCS đã được khai mạc, có đại biểu của 19 đảng, nhóm ĐCS, phong trào công nhân quốc tế và quan sát viên 15 nước với các chính đảng lớn ở phương Tây và phương Đông. Sự có mặt lần đầu tiên của đại biểu các nước phương Đông, tuy không nhiều, nhưng đã chứng tỏ tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của QTCS. Tại đây, vấn đề tổ chức QTCS được thảo luận đầu tiên và thống nhất tuyên bố Quốc tế III - QTCS chính thức ra đời. Đại hội đã thảo luận kỹ và thông qua Cương lĩnh, sách lược đấu tranh cách mạng của QTCS. Trong lời nói đầu của Cương lĩnh, V.I. Lê-nin khẳng định: thời đại mới nảy sinh, thời đại tan rã của CNTB, của sự suy sụp bên trong của nó, thời đại cách mạng của giai cấp vô sản. Cương lĩnh đã vạch ra đường lối cách mạng của PTCS&CNQT; công khai tuyên bố: lật đổ chính quyền tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản, xã hội hóa sản xuất và chuyển sang xã hội cộng sản không giai cấp; đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công, tệ nạn người nô dịch người, v.v.

Tuyên ngôn gửi những người vô sản toàn thế giới đã khẳng định: chừng nào còn giai cấp tư sản, còn sự áp bức, bóc lột thì chừng ấy còn bất công, không có độc lập, tự do cho người lao động. Đồng thời, kêu gọi giai cấp vô sản toàn thế giới và tất cả các dân tộc bị áp bức, bóc lột đứng dậy, kiên quyết đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công; thực hiện chuyên chính vô sản. Như vậy, QTCS đã bắt đầu thực hiện khẩu hiệu vĩ đại nhất của Mác: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!” và tiếp tục tập hợp lực lượng đấu tranh cách mạng, thực hiện tiến bộ xã hội, hướng đến mục tiêu thiết lập nền chuyên chính vô sản, thực hiện sứ mệnh: giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng xã hội và giải phóng nhân loại mà C. Mác đã vạch ra.

Sau Đại hội thành lập QTCS, PTCS&CNQT đã có bước tiến dài, vững chắc. Dấu ấn nổi bật là sự hình thành, phát triển, tiến bộ về mặt tổ chức của các ĐCS theo lập trường mác-xít lê-nin-nít. Những quan điểm tiến bộ, cách mạng, đứng vững trên lập trường mác-xít khoa học, cách mạng từng bước lấn át, đẩy lùi, khắc phục những quan điểm “lầm đường, lạc lối” của bè phái ''tả khuynh'', cơ hội, xét lại; giảm bớt tác hại cho PTCS&CNQT. Trong 24 năm tồn tại, phát triển, QTCS đã tổ chức 7 kỳ đại hội. Qua mỗi kỳ đại hội, cuộc đấu tranh cách mạng của PTCS&CNQT ngày càng tiến bộ, trưởng thành; một loạt các ĐCS, Đảng Công nhân ở nhiều nước đã ra đời, trực tiếp lãnh đạo và đưa PTCS&CNQT phát triển ở mỗi nước. Một trong những vấn đề có tính nguyên tắc trong hoạt động của QTCS là, tại mỗi kỳ đại hội, đều thảo luận rất kỹ các văn kiện trước khi thông qua luận cương về những nhiệm vụ, bảo đảm sự đoàn kết nhất trí, ngăn ngừa không để cho những phần tử cơ hội, hữu khuynh, trước hết là những phần tử phái giữa lén lút chui vào QTCS. Điều đó, luôn đảm bảo chắc chắn nhất để các ĐCS trong sạch vững mạnh, đủ sức làm tròn vai trò lãnh đạo cách mạng tiên phong. Đây là vấn đề vẫn còn nguyên giá trị đối với PTCS&CNQT hiện nay và mai sau.

QTCS đã phát triển toàn diện vấn đề dân tộc, thuộc địa trên cơ sở vạch ra con đường đấu tranh cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, cũng như sự cần thiết phối hợp hành động giữa PTCS&CNQT với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Khẩu hiệu của C. Mác: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!” đã được V.I. Lê-nin phát triển thành: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Đó là bước ngoặt to lớn trong nghệ thuật lãnh đạo của những người cộng sản, làm cho QTCS ngày càng phát triển, trở thành người lãnh đạo, là lãnh tụ của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Với đường lối chính trị đúng đắn về vấn đề dân tộc và thuộc địa, QTCS đã nêu cao tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc phương Đông với giai cấp vô sản phương Tây. Tuy có lúc giai cấp vô sản đã tạm thời thất bại do chính sách chia rẽ, phá hoại của các lãnh tụ đảng xã hội - dân chủ; song uy tín của QTCS không bị suy giảm, trái lại, còn không ngừng được tăng lên. Từ chỗ ban đầu (năm 1919) chỉ có 10 ĐCS tham gia, đến năm 1921 (trong vòng 2 năm), con số này tăng thành 48. Đến đầu năm 1930, phong trào giải phóng dân tộc cũng lên cao ở Đông Bắc Á, Đông Dương và Nam Á. Ngày 03-02-1930, ĐCS Việt Nam ra đời, nhanh chóng trở thành một chi bộ của QTCS (4-1931). Từ đây, cách mạng Việt Nam hòa nhập vào dòng thác cách mạng thế giới. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tham gia Đại hội thành lập Quốc tế nông dân với tư cách là đại biểu của nông dân các nước thuộc địa và được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế nông dân. Ảnh hưởng của QTCS ngày càng mở rộng trong các tổ chức quần chúng và đông đảo nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới.

Trước sự tấn công hủy diệt của chủ nghĩa phát-xít và nguy cơ chiến tranh thế giới xảy ra, Đại hội lần thứ VII của QTCS đã thông qua Cương lĩnh, kêu gọi nhân dân thế giới kiên quyết đấu tranh ngăn chặn bàn tay phát-xít đẫm máu; đề ra các đối sách bảo vệ Liên Xô, bảo vệ thành trì cách mạng và nền hòa bình thế giới. Vì vậy, Đại hội này được coi là Đại hội thắng lợi của CNXH ở Liên Xô; là Đại hội thành lập Mặt trận công nhân và nhân dân thống nhất chống chủ nghĩa phát-xít và chiến tranh thế giới. Sau Đại hội, Mặt trận nhân dân trong các nước TBCN và Mặt trận chống đế quốc trong các nước thuộc địa, nửa thuộc địa lần lượt ra đời, tạo điều kiện cần thiết để lật đổ bọn tư bản tài chính, thủ tiêu chủ nghĩa phát-xít, bảo vệ, gìn giữ hòa bình.

Trong Chiến tranh thế giới thứ Hai, các ĐCS đã có khả năng độc lập giải quyết những vấn đề của phong trào công nhân, nhiệm vụ của mỗi dân tộc. Vả lại, trong điều kiện chiến tranh, sự liên lạc giữa các ĐCS hết sức khó khăn; việc duy trì một cơ quan chỉ đạo cách mạng chung trên toàn thế giới khó có thể thực hiện. Hơn nữa, giới cầm quyền trong nhiều nước tư bản đã lợi dụng QTCS như một nhân tố cản trở quá trình thành lập Mặt trận đồng minh chống phát-xít. Lúc này, sự tiếp tục tồn tại và hoạt động của QTCS không còn phù hợp. Do đó, tháng 5-1943, Ban Chấp hành QTCS đã ra Nghị quyết giải tán QTCS.

Như vậy, QTCS ra đời, tồn tại trong một hoàn cảnh đặc biệt, có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của PTCS&CNQT; góp phần quyết định đến chất lượng bồi dưỡng, giáo dục các thế hệ cán bộ lãnh đạo của các ĐCS và biến các đảng đó thành đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp công nhân. Chính điều ấy đã làm cho những kẻ cơ hội, xét lại trong Quốc tế II trước đây và hiện nay rất lo sợ, đã và đang tìm mọi cách chống đối. Dưới sự lãnh đạo của QTCS, PTCS&CNQT nói chung, các ĐCS nói riêng phát triển và trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu trong cuộc đấu tranh cách mạng, chống chiến tranh đế quốc, vạch mặt bọn cơ hội, xét lại; bảo vệ và phát triển toàn diện chủ nghĩa Mác trong thời đại mới - thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Ngày nay, tuy QTCS không còn tồn tại, song, quan điểm, tư tưởng, đường lối mà QTCS vạch ra luôn sống mãi. Biểu hiện sức sống mãnh liệt của QTCS là từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai đến giữa những năm 70 của thế kỷ XX, PTCS&CNQT đã có bước phát triển mới và thu được những thắng lợi vang dội. Vào cuối giai đoạn này, chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã trở thành hệ tư tưởng thống trị trong PTCS&CNQT; ĐCS đã hoạt động ở hơn 90 nước trên thế giới với hơn 75 triệu đảng viên (trong đó có: 15 ĐCS cầm quyền ở 15 nước XHCN, với gần 70 triệu đảng viên; 28 ĐCS ở các nước tư bản phát triển, gồm 3,5 triệu đảng viên; 16 ĐCS ở các nước đang phát triển ở châu Á, 9 ĐCS ở châu Phi và 26 ĐCS ở Mỹ – La-tinh, với tổng số khoảng 1,5 triệu đảng viên). Từ đây, có thể khẳng định, không một trào lưu tư tưởng chính trị nào có lực lượng và sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử thế giới trong giai đoạn này như chủ nghĩa Mác – Lê-nin và QTCS.

Thành tựu lớn nhất của PTCS&CNQT là sự ra đời của hệ thống XHCN thế giới, làm thay đổi bộ mặt của hành tinh chúng ta và chủ nghĩa Mác – Lê-nin trở thành nền tảng tư tưởng của các ĐCS. Tuy hiện nay, hậu duệ của bọn cơ hội, xét lại của Quốc tế II đã và vẫn cố tình chống phá, song không thể bác bỏ được bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, lý tưởng của QTCS. Bởi, QTCS không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà là sự kế tiếp hợp quy luật, kết quả đấu tranh của PTCS&CNQT kéo dài hàng thế kỷ với học thuyết khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin soi sáng, dẫn đường. Vì vậy, QTCS đã, đang và sẽ mãi mãi là nhân tố quan trọng, có vai trò định hướng, dẫn dắt sự phát triển, tiến bộ của thế giới hiện đại. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, các ĐCS và công nhân đã tổ chức nhiều hội nghị quốc tế (vào các năm 1957, 1960 và 1969),... để trao đổi ý kiến, thảo luận, đánh giá các vấn đề lớn của thời đại, như: CNXH, CNTB, phong trào độc lập dân tộc, phong trào công nhân quốc tế và đề ra phương hướng, nhiệm vụ của phong trào, của các đảng ở các khu vực, những vấn đề lý luận, chiến lược và sách lược của phong trào cộng sản quốc tế. Tuy nhiên, do những rạn nứt, bất đồng quan điểm, chính kiến về những vấn đề quốc tế và những sai lầm về đường lối, chiến lược, sách lược của các ĐCS cùng nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau, đã dẫn đến hậu quả: phong trào cộng sản lâm vào khủng hoảng và suy thoái; chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Sự đổ vỡ, khủng hoảng đó là đau đớn, đáng tiếc, song không có nghĩa chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã lỗi thời, QTCS không còn giá trị. Trái lại, đó là một “cuộc thử vàng” đối với các ĐCS. Tất cả điều đó đã nói lên rằng, trong thời đại ngày nay, bất kể ĐCS nào, nếu vi phạm thô bạo những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, thực hiện sai đường lối mà QTCS đã vạch ra; không được nhân dân đồng tình, ủng hộ, thì nhất định đảng ấy sẽ lâm vào khủng hoảng, sụp đổ, mất quyền lãnh đạo. Ngược lại, các ĐCS kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin; kiên quyết, sáng tạo, linh hoạt, mềm dẻo trong đường lối đổi mới, cải cách; có chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội hợp lòng dân,… thì sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN sẽ thành công. Sự tồn tại và ngày càng trở nên vững mạnh của CNXH ở Việt Nam với đường lối đổi mới; ở Trung Quốc với CNXH đặc sắc Trung Quốc; ở Cu Ba với mô hình cập nhật về kinh tế,… và việc nhiều nước ở châu Phi, Mỹ – La-tinh đang vươn tới những giá trị của CNXH, hay sự phát triển, khẳng định uy tín của các ĐCS ở ngay những nước tư bản phát triển trong những năm qua đã chứng minh điều đó. Điều này cũng đồng thời khẳng định: sức sống mãnh liệt của QTCS thể hiện ở chỗ, nó đã vượt lên trên mọi thành kiến để bác bỏ, đánh bại mọi kẻ thù “lớn nhỏ” của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin, Hồ Chí Minh,… cũng như ngày càng chứng minh bản chất khoa học, cách mạng của học thuyết Mác – Lê-nin, tiếp tục phát triển PTCS&CNQT và giải đáp được các vấn đề cơ bản thời đại đặt ra; là kim chỉ nam cho hành động của các ĐCS.

Vì vậy, không thể bác bỏ những giá trị của QTCS; không thể xóa bỏ lý tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, con người, xã hội và nhân loại mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã vạch ra. Những ai đó còn định kiến và mang quan điểm như vậy đều là ảo tưởng, thiếu thực tế, cần phải kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.

Chủ đề