Pôn Pốt là lãnh đạo đảng Khơ-me Đỏ, kẻ đứng đầu phong trào diệt chủng, giết hại dã man gần ba triệu người Campuchia và hàng nghìn người Việt. Pôn Pốt là ai? Pôn pốt là ai mà chỉ cần nhắc đến tên thôi nhiều người đã thấy trào lên một nỗi khiếp sợ, căm phẫn? Pôn Pốt, tên thật là Saloth Sar, được biết đến với cái tên Pol Pot (phiên âm là Pôn Pốt). Ông ta sinh năm 1928 tại tỉnh Kampong Thom, trong một gia đình khá giàu có. Năm 1949, Pôn Pốt được du học tại Paris và bắt đầu tham gia các hoạt động chính trị. Vào năm 1953, y tham gia Mặt trận Việt Minh nhưng có mưu đồ bất chính như chia rẽ nội bộ, tranh quyền lãnh đạo trong Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia. Tháng 2/1963, tại đại hội lần thứ hai của Đảng Công nhân Campuchia (trước tên là Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia), Pôn Pốt được chọn kế vị đồng chí Tu Sa-mút, người bị sát hại trước đó. Sau khi trở thành Tổng Bí thư của đảng, Pôn Pốt cùng bè lũ đã phản bội lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân Campuchia và phá hoại truyền thống đoàn kết, hữu nghị của nhân dân hai nước Việt Nam – Campuchia. Những kẻ phản bộiQuyền lực tối cao trong tập đoàn phản động của Pôn Pốt chủ yếu thuộc vào 5 nhân vật gồm Pôn Pốt, Nuôn Chia, Iêng Xa-ri, Khiêu Xam-phon và Tà Mốc. Tháng 9/1966, chúng bí mật đổi tên đảng thành Đảng Cộng sản Campuchia (Khơ me Đỏ). Pôn Pốt là ai mà chỉ cần nhắc đến tên thôi đã dấy lên sự căm phẫn? Thi thể của Pôn Pốt ở một ngôi làng thuộc khu vực biên giới Campuchia - Thái Lan hồi năm 1998.Ngày 17/4/1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc ở Campuchia. Khơ-me Đỏ chiếm được thủ đô Phnom Penh. Pôn Pốt lập nên nhà nước Campuchia Dân chủ. 20/5/1975, Thường vụ Trung ương đảng Pôn Pốt họp quyết định ba chủ trương lớn: Làm trong sạch nội bộ nhân dân; xác định Việt Nam là kẻ thù số một, kẻ thù truyền kiếp; xây dựng xã hội mới của Campuchia không chợ, không tiền, không trường học, không đô thị, không trí thức, không tôn giáo… Với chính sách trên, chúng liên tục thực hiện các hành vi thù địch với Việt nam và chính sách diệt chủng tàn khốc ở Campuchia. Chúng cưỡng bức lao động khổ sai, tra tấn hành hạ dã man người dân Campuchia, biến trường học, nhà chùa thành nhà tù, khắp mọi nơi đầy những hố chôn người tập thể. Trong khoảng thời gian từ tháng 4/1975 đến cuối năm 1978, tập đoàn Pôn Pốt đã giết hại gần 3 triệu dân Campuchia, xóa bỏ mọi cơ sở xã hội, xóa bỏ thành thị, xóa bỏ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, xóa bỏ quan hệ tiền tệ, buôn bán và đẩy Campuchia đứng trước thảm họa diệt vong. Người dân bị cai trị dưới một chế độ vô cùng hà khắc. Họ không được tự do đi lại, không tự do hội họp, không tự do ngôn luận, không tự do tín ngưỡng, không tự do học hành, không tự do hôn nhân, không bệnh viện, không tiêu tiền, không buôn bán, không chùa chiền... Tội ác với Việt NamĐối với Việt Nam, chúng kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, xấu xa, vu khống Việt Nam. Trong khoảng thời gian từ năm 1975 đến năm 1977, chúng thường xuyên có hành động gây hấn khiêu khích và xâm phạm biên giới Việt Nam. Đêm ngày 30/4/1977, lợi dụng lúc quân và dân ta kỷ niệm hai năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Pôn Pốt đã mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang, chính thức bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam. Các cuộc tiến công và pháo kích của quân Pôn Pốt vào An Giang tính đến ngày 19/5/1977 đã giết hại 222 người và làm 614 người dân Việt Nam bị thương, phá nhiều nhà cửa, tài sản của nhân dân. Trong thời gian gần hai năm chiến tranh, quân Pôn Pốt giết hại và bắt hơn 30.000 dân thường tại các xã biên giới của Việt Nam, 400.000 người dân mất nhà cửa, trên 3.000 nhà bị bỏ hoang; nhiều nhà thờ, trường học, chùa chiền bị chúng đốt phá. Dưới sự giúp đỡ của quân đội Việt Nam, nhân dân Campuchia đã lật đổ chế độ Khơ-me Đỏ vào năm 1979. Pol Pot phải trốn ở vùng biên giới với Thái Lan. Năm 1997, sau một cuộc đấu đá quyền lực trong nội bộ Khơ-me Đỏ, Pol Pot bị đồng bọn bắt giữ và bị kết án quản thúc tại gia đến hết đời. Y mất ngày 15/4/1998 trong rừng sâu. Nguyên nhân chết không rõ ràng.
Năm 1966, Pol Pot rút cơ quan đại diện bên cạnh Trung ương Cục miền Nam về nước và từ đó, quan hệ của Đảng ta với Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia càng có nhiều trắc trở. Trong thời kỳ này, ở vùng Đông Bắc và Đông Campuchia, chính quyền Vương quốc thỏa thuận cho Việt Nam đặt hậu cứ, kho tàng, trạm cứu thương… Lợi dụng điều kiện vùng hành lang là khu vực rừng rậm, binh lính Pol Pot lúc thì công khai, lúc thì đóng giả làm lực lượng của các phe nhóm khác, đã cướp kho tàng, phục kích các nhóm hành quân lẻ của bộ đội Việt Nam. Từ năm 1970 đến 1973, khi bộ đội Việt Nam tập trung lực lượng đánh Mỹ và tay sai ở chiến trường Campuchia thì lính Pol Pot đã gây ra 174 vụ khiêu khích, tập kích các hậu cứ, cướp vũ khí, lương thực, giết hơn 600 cán bộ và chiến sĩ Việt Nam. Năm 1972, Pol Pot công khai đề nghị Việt Nam rút quân về nước và có hành động xua đuổiViệt kiềutrong vùng vừa giải phóng. Khi Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết tháng 1-1973, Pol Pot cho rằng việc ký hiệp định là sự phản bội của Việt Nam với cách mạng Đông Dương và cho cấp dưới tuyên truyền, tổ chức các cuộc biểu tình phản đối lực lượng Việt Nam đứng chân ở Campuchia.
Trước thái độ thù địch của Pol Pot, tháng 7-1970, trong bức thư gửi cho Trung ương Cục miền Nam, Tổng Bí thư Lê Duẩn viết: “Với Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, chúng ta cần tìm ra mọi cách tăng cường quan hệ, từng bước tạo ra sự nhất trí về đường lối, chủ trương, đồng thời giúp bạn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trên bước đường cùng tiến lên của cách mạng, không tránh khỏi những sự khác nhau giữa ta và bạn. Nhưng với đường lối đúng đắn, với tinh thần quốc tế chân chính, với thái độ chân thành, tôn trọng bạn… sẽ xây dựng được tình đoàn kết chiến đấu ngày càng sâu sắc giữa hai Đảng, nhân dân hai nước”(1). Tuy nhiên, trái với hy vọng của chúng ta, cách mạng Campuchia càng đến gần thắng lợi thì Pol Pot càng ráo riết chuẩn bị kế hoạch chống phá Việt Nam và tiêu diệt lực lượng yêu nước chân chính Campuchia. Ngay sau khi cách mạng hai nước giành thắng lợi (tháng 4-1975), ngày 1-5-1975, tập đoàn Pol Pot đã cho quân xâm phạm nhiều nơi thuộc lãnh thổ Việt Nam từ Hà Tiên đến Tây Ninh; tiếp đó đánh chiếm các đảo Phú Quốc, Thổ Chu, triệt phá làng mạc, bắn giết nhiều người dân và bắt đưa đi 515 người khác. Sau những sự kiện nghiêm trọng trên, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn bày tỏ mong muốn hai nước Việt Nam và Campuchia đàm phán ký kết hiệp ước về biên giới giữa hai nước trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tiếp tục đoàn kết và tăng cường tình nghĩa anh em giữa nhân dân hai nước. Song, do bản chất dân tộc cực đoan, tập đoàn Pol Pot được sự hậu thuẫn bên ngoài tiếp tục có nhiều hành động thù địch chống Việt Nam. Chỉ trong mấy tháng cuối năm 1975 và đầu năm 1976, quân Pol Pot liên tiếp gây ra hơn 250 vụ xâm phạm lãnh thổ, cướp thóc gạo, trâu, bò, tàn sát nhiều người dân Việt Nam. Từ đầu năm 1977, quân Pol Pot lại mở cuộc tiến công vào các đồn biên phòng Việt Nam ở Bu Prăng (Đắc Lắc), vùng Mỏ Vẹt (Long An) và một số nơi ở Tây Ninh, Đồng Tháp, An Giang. Nghiêm trọng nhất là từ ngày 30-4 đến 19-5-1977, Pol Pot sử dụng lực lượng quy mô sư đoàn tiến công sang đất Việt Nam trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang, giết hại 222 người, làm bị thương 614 người, bắt đi 10 người, đốt cháy 552 nhà dân, cướp 134 tấn lúa, phá hoại hàng trăm héc-ta lúa đang đến mùa gặt; cướp phá nhiều tài sản của nhân dân...(2). Tháng 6-1977, lãnh đạo Khmer Đỏ ra nghị quyết coi Việt Nam “là kẻ thù số một, kẻ thù vĩnh cửu” của Campuchia và từ đây, chúng ngang nhiên mở rộng xung đột thành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mấy tháng cuối năm 1977, quân Pol Pot mở nhiều cuộc tiến công lớn sang Việt Nam trên tuyến biên giới từ Kiên Giang đến Tây Ninh. Riêng tại xã Tân Lập (Tân Biên, Tây Ninh), ngày 25-9-1977, quân Pol Pot đã đốt cháy 400 nóc nhà, giết hơn 1.000 dân thường. Sau khi bị bộ đội Việt Nam mở đòn tiến công trừng trị hành động xâm lược trên tuyến biên giới, ngày 31-12-1977, tập đoàn Pol Pot đã đơn phương cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Từ đây, chúng công khai tuyên truyền vu khống Việt Nam, coi Việt Nam là mối đe dọa đối với Campuchia, gắn quá trình phản bội và xâm lược Việt Nam với các cuộc thanh trừng các lực lượng chân chính trong nước. Chúng ráo riết xây dựng thêm các sư đoàn chiến đấu, đồng thời tập trung 13/18 sư đoàn bộ binh áp sát biên giới Việt Nam, tiến hành khiêu khích, thăm dò, chuẩn bị những cuộc tiến công xâm lược mới. Liên tiếp trong các tháng đầu năm 1978, Pol Pot sử dụng 5 sư đoàn chủ lực cùng 5 trung đoàn địa phương, có pháo binh yểm trợ, luân phiên đánh vào sâu lãnh thổ Việt Nam. Đặc biệt, tại xã Ba Chúc (Tri Tôn, An Giang), cách đường biên giới Việt Nam-Campuchia 7km, ngày 18-4-1977, lính Pol Pot đã dồn người dân hiền lành để bắn, giết tập thể bằng những hành động vô cùng dã man, giết hại 3.157 người, phần lớn là người già, phụ nữ và trẻ em, trong đó có hơn 100 gia đình bị giết cả nhà. Tính từ tháng 5-1975 đến giữa năm 1978, quân Pol Pot đã giết hại hơn 5.000 dân thường Việt Nam, làm bị thương gần 5.000 người, bắt và đưa đi hơn 20.000 người; hàng nghìn trường học, bệnh viện, cơ sở y tế, nhà thờ, chùa chiền bị đốt phá, trâu, bò bị cướp, giết, hoa màu bị phá hoại; hàng vạn héc-ta ruộng đất và đồn điền cao su ở vùng biên giới Tây Nam Việt Nam bị bỏ hoang; khoảng nửa triệu dân sát biên giới với Campuchia phải bỏ nhà, bỏ đất, bỏ ruộng chạy sâu vào nội địa(3). Hậu quả mà Pol Pot gây ra cho nhân dân Việt Nam là hết sức to lớn, trong khi nguy cơ diệt vong của dân tộc Campuchia dưới chế độ diệt chủng tàn bạo của tập đoàn Pol Pot đã đến mức nguy kịch. Những hành động xâm lược và diệt chủng tàn bạo của tập đoàn Pol Pot là không thể dung tha. Đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, của nhân dân Campuchia, Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân Việt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng và thiêng liêng của mình để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; đồng thời cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng, giúp đỡ những người cách mạng chân chính Campuchia làm lại cuộc cách mạng đã bị phản bội. Đại táPHẠM HỮU THẮNG
(1)Lê Duẩn:Thư vào Nam,Nxb Sự thật, Hà Nội,1985,tr. 234-235.
(2)Số liệu về quân đội Campuchia vi phạm biên giới Việt Nam từ năm 1975,Tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông 82, Đơn vị bảo quản 2325.
(3)Báo cáo về việc lực lượng vũ trang Campuchia tấn công ta ở biên giới,Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, Hồ sơ 1172. |