Ngôn bản là gì

Sự khác biệt giữa văn bản và diễn ngôn - Sự Khác BiệT GiữA

Các Sự khác biệt chính giữa văn bản và diễn ngôn là văn bản không chỉ định một đại lý trong khi diễn ngôn chỉ định tác nhân của thông tin. Vì vậy, một văn bản nhất thiết không tương tác trong khi diễn ngôn nhất thiết phải tương tác.


Mặc dù hai thuật ngữ văn bản và diễn ngôn được sử dụng thay thế cho nhau liên quan đến nghiên cứu phân tích văn học, hai thuật ngữ này là hai chủ đề khác nhau. Sự nhầm lẫn này phát sinh do bản chất tương tự của hai trong nghiên cứu phân tích văn học của họ như phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn.

Các khu vực chính được bảo hiểm

1. Văn bản là gì
- Định nghĩa, tính năng, ví dụ
2. Nghị luận là gì
- Định nghĩa, tính năng, ví dụ
3. Điểm giống nhau giữa văn bản và diễn ngôn
- Phác thảo các tính năng phổ biến
4. Sự khác biệt giữa văn bản và diễn ngôn
- So sánh sự khác biệt chính

Điều khoản quan trọng

Nghiên cứu phân tích, diễn ngôn, ngôn ngữ học, văn bản, giao tiếp



Văn bản là gì

Một văn bản bao gồm một số thông tin, cụ thể ở dạng viết hoặc in. Vì vậy, đáng chú ý là tác nhân của một văn bản là không quan trọng: có thể có hoặc không có một tác nhân. Và tác nhân không có tác động trực tiếp của nội dung đến người đọc. Ví dụ, hãy xem xét văn bản trong sách giáo khoa chủ đề, bài tiểu luận hoặc thông cáo báo chí trong đó thông tin chỉ được báo cáo có hoặc không có tác nhân hoặc người nói. Thông tin hiện diện trong một văn bản thường không tương tác hoặc không chứa dấu hiệu của lời nói đàm thoại. Vì vậy, người đọc chỉ đọc và nhận thức được các sự kiện trình bày. Như được định nghĩa bởi các thuật ngữ thuật ngữ ngôn ngữ, văn bản là một chuỗi các đoạn văn đại diện cho một đơn vị lời nói mở rộng. Vì vậy, sự gắn kết ngữ pháp là một yếu tố cơ bản trong văn bản.


Để phân tích nội dung của văn bản, người ta cần lưu ý đến các loại ngôn ngữ và ngữ pháp của ngôn ngữ và thông tin được cung cấp theo ý nghĩa, các thiết bị ngữ pháp được sử dụng, cấu trúc, ý nghĩa, v.v. Do đó, bằng cách phân tích cấu trúc tổng thể của văn bản, người ta có thể nắm bắt ý nghĩa của văn bản. Vì vậy, phân tích văn bản, một cách ngắn gọn, là phân tích của các câu gắn kết ngữ pháp này, truyền đạt một số thông tin.


Tuy nhiên, trong nghiên cứu văn học, có một số loại văn bản: văn bản tường thuật, văn bản mô tả, văn bản giải trình, vv trong đó diễn ngôn cũng có thể được bao gồm.

Nghị luận là gì

Một bài diễn thuyết nhất thiết phải tương tác, có nghĩa là luôn có một tác nhân cho thông tin trong bài nghị luận. Nói một cách đơn giản, diễn ngôn thường là giao tiếp trò chuyện giữa mọi người. Do đó, theo ngôn ngữ học và lý thuyết văn học, diễn ngôn được định nghĩa là một sự kiện xã hội của giao tiếp nhiều lớp trong nhiều phương tiện: bằng lời nói, văn bản, hình ảnh và thính giác, có một mục đích xã hội tương tác.

Vì vậy, chất lượng tương tác là một yêu cầu chính trong diễn ngôn. Nói cách khác, sự tồn tại của một tác nhân đối với thông tin xác định ý nghĩa của diễn ngôn. Do đó, không giống như một văn bản, một bài diễn văn có thể có các câu gắn kết cũng như cách nói của các tác nhân giao tiếp. Nói cách khác, diễn ngôn mô tả việc sử dụng ngôn ngữ cho các mục đích xã hội. Đây là sự khác biệt cơ bản giữa văn bản và diễn ngôn.


Do đó, để phân tích một bài diễn văn, người ta nên nghiên cứu những người hoặc các tác nhân liên quan đến giao tiếp (ai với ai), mục đích của họ (mục đích xã hội) và phương tiện được sử dụng (bằng lời nói, bằng văn bản, âm thanh hoặc hình ảnh). Vì vậy, để nắm bắt ý nghĩa của diễn ngôn, người ta nên phân tích tất cả ba yếu tố cơ bản này trong diễn ngôn.

Sự tương đồng giữa văn bản và diễn ngôn

  • Cả văn bản và diễn ngôn thường bao gồm các câu mà thông tin giao tiếp.

Định nghĩa

Văn bản thường là một dạng thông tin giao tiếp bằng văn bản, có tính chất không tương tác. Ngược lại, diễn ngôn có thể từ hình thức nói, viết, hình ảnh và thính giác, truyền đạt thông tin có tính tương tác trong tự nhiên.

Đặc vụ

Các tác nhân không quan trọng cho văn bản. Tuy nhiên, tác nhân là rất quan trọng, và đó là những gì tạo nên một bài diễn văn. Đây là sự khác biệt chính giữa văn bản và diễn ngôn.

Thiên nhiên

Ngoài ra, văn bản là không tương tác trong tự nhiên; trái lại, diễn ngôn có tính tương tác.

Bộ phận phân tích

Trong một văn bản, sự gắn kết ngữ pháp và cấu trúc của câu được phân tích trong khi, trong diễn ngôn, các tác nhân liên quan đến giao tiếp, mục đích xã hội và phương tiện được sử dụng được phân tích để hiểu ý nghĩa của nó. Đây là một sự khác biệt quan trọng giữa văn bản và diễn ngôn.

Trung bình hoặc hình thức

Hơn nữa, văn bản thường ở dạng viết trong khi diễn ngôn có thể ở dạng viết, bằng lời nói, hình ảnh hoặc âm thanh.

Ví dụ

Ví dụ về văn bản bao gồm báo cáo báo chí, biển báo đường phố, tài liệu, v.v. trong khi diễn ngôn có thể là đối thoại, hội thoại, tương tác trong các chương trình nghe nhìn, v.v., bất cứ điều gì diễn tả cách sử dụng ngôn ngữ xã hội.

Phần kết luận

Văn bản và diễn ngôn tạo ra sự nhầm lẫn khác nhau do việc sử dụng có thể hoán đổi cho hai thuật ngữ này trong các bối cảnh khác nhau. Tuy nhiên, hai điều này là các khía cạnh đặc biệt của ngôn ngữ học và nghiên cứu truyền thông. Một văn bản nhất thiết không tương tác trong khi diễn ngôn nhất thiết phải tương tác. Do đó, một văn bản không nhất thiết chỉ ra một tác nhân trong khi tác nhân là một yếu tố quan trọng trong một diễn ngôn. Đây là sự khác biệt chính giữa văn bản và diễn ngôn.

Tài liệu tham khảo:

1. Hardison, Karen P.L. Văn bản và diễn ngôn.Enotes.com, Enotes.com, ngày 6 tháng 8 năm 2011,

ngôn bản/
(phát âm có thể chưa chuẩn)
Chủ đề Chủ đề Tiếng Lào chuyên ngành

Dưới đây là khái niệm, định nghĩa và giải thích cách dùng từ ngôn bản/ trong tiếng Lào. Sau khi đọc xong nội dung này chắc chắn bạn sẽ biết từ ngôn bản/ tiếng Lào nghĩa là gì.

Không tìm thấy từ ngôn bản/ tiếng Lào. Chúng tôi rất xin lỗi vì sự bất tiện này!
Không tìm thấy từ ngôn bản/ tiếng Lào. Chúng tôi rất xin lỗi vì sự bất tiện này!

Đây là cách dùng ngôn bản/ tiếng Lào. Đây là một thuật ngữ Tiếng Lào chuyên ngành được cập nhập mới nhất năm 2022.

Cùng học tiếng Lào

Hôm nay bạn đã học được thuật ngữ ngôn bản/ trong tiếng Lào là gì? với Từ Điển Số rồi phải không? Hãy truy cập tudienso.com để tra cứu thông tin các thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh, Trung, Nhật, Hàn...liên tục được cập nhập. Từ Điển Số là một website giải thích ý nghĩa từ điển chuyên ngành thường dùng cho các ngôn ngữ chính trên thế giới.

Thuật ngữ liên quan tới ngôn bản/

  • tàu điện tiếng Lào là gì?
  • ác quy a xít tiếng Lào là gì?
  • quả chuông tiếng Lào là gì?
  • khuất gió tiếng Lào là gì?
  • muối khoáng tiếng Lào là gì?
  • trao tay tiếng Lào là gì?
  • chông ba lá tiếng Lào là gì?
  • chép miệng tiếng Lào là gì?
  • tôm càng tiếng Lào là gì?
  • ranh như ma tiếng Lào là gì?

• Dẫn nhập
• Câu-ngôn bản • Ngôn bản là gì? Và cái gì làm nên văn bản? • Nghĩa của phát ngôn và ngữ cảnh • Hàm ý và hàm ngôn quy ước • Hàm ngôn hội thoại • Ngữ cảnh là gì?

Trước khi có thể bàn một cách hợp lí về mối liên hệ giữa ngôn bản và ngữ cảnh, ta phải nhìn lại cái vị thế của câu.

Chương trước đã chỉ ra rằng có nhiều phát ngôn thường ngày của chúng ta là không đầy đủ về mặt ngữ pháp, hoặc bị tỉnh lược. Một số là lời nói ở dạng có sẵn của những dạng thức cố định: Good heavens!, Least said, soonest mended, v.v. Tôi không có gì nói thêm về loại này. Tôi đề cập đến chúng chỉ để thấy rằng, trong tất cả các ngôn ngữ đều có những biểu thức như vậy (hữu hạn về mặt số lượng và trong một số trường hợp thì thuộc vào loại cấu trúc ít nhiều được xác định về ngữ pháp) những biểu thức mà dạng thức và nghĩa đều không thể được giải thích về mặt đồng đại như là việc phát ngôn ra câu. Tất nhiên, chúng phải được giải thích khi miêu tả cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc ngữ nghĩa của những ngôn ngữ cụ thể. Song chúng không gây ra vấn đề, khác với những vấn đề nảy sinh tương tự khi phân tích cái tập hợp vô hạn những phát-ngôn-thành-phẩm tiềm năng, mà bất kì thành viên nào trong số này về nguyên tắc cũng là kết quả của việc phát ngôn câu nói. Chỉ có một tập hợp con hữu hạn, tương đối nhỏ, của cái tập hợp vô hạn các phát ngôn tiềm năng mới được thực tại hoá trong việc sử dụng ngôn ngữ ngày này qua ngày khác. Song, như các nhà ngữ pháp tạo sinh đã nhấn mạnh đúng đắn trong những năm gần đây, rằng lí thuyết ngôn ngữ học không thể bó hẹp trong việc phân tích một tập hợp hữu hạn các phát-ngôn-thành-phẩm mang tính hiện thực, song được chọn lựa và chỉ là đại diện (là kết quả của việc sử dụng) cho một ngôn ngữ có thể ứng với tập hợp đó. Khi nhấn mạnh vào luận điểm này (vốn được các nhà nghĩa học hình thức chấp nhận rộng rãi, bất luận là họ có theo những nguyên tắc của ngữ pháp tạo sinh như hiện nay đang được lập thức trong ngôn ngữ học hay không), ngữ pháp tạo sinh chỉ tái xác nhận một điều đã được các nhà lí thuyết và thực hành của ngữ pháp truyền thống mặc định qua hàng thế kỉ. Cái mới và hấp dẫn trong ngữ pháp tạo sinh (cũng như trong nghĩa học hình thức) là cố gắng áp dụng với hiệu quả tối đa nguyên tắc hợp tố trong việc giải thích cấu trúc ngữ pháp (và nghĩa) của các câu trong ngôn ngữ tự nhiên. Mặc dù vậy, đã có rất nhiều nhầm lẫn, cả trong ngữ pháp tạo sinh lẫn trong ngữ pháp truyền thống về mối quan hệ giữa câu và phát ngôn. Nhiệm vụ đầu tiên của ta trong mục này là làm sáng tỏ những nhầm lẫn này. Chính tập hợp vô hạn các phát-ngôn-thành-phẩm tiềm năng là đối tượng quan tâm chủ yếu của ta ở đây.

Dẫu có thể là ngược đời, song cái sản phẩm của việc phát ngôn ra câu lại không tất yếu là câu. Cái nghịch lí rành rành này lập tức biến mất nếu ta nêu ra sự phân biệt giữa cái nghĩa trừu tượng hơn với cái nghĩa cụ thể hơn của thuật ngữ ‘câu’. Trong cái nghĩa trừu tượng hơn, câu là những kiến trúc lí thuyết, được nhà ngôn ngữ định ra làm tiên đề nhằm giải thích tính đúng ngữ pháp được thừa nhận của những phát ngôn tiềm năng nào đó và tính sai ngữ pháp của những phát ngôn khác. Chúng có thể có hoặc không có một loại hiệu lực tâm lí nào đó trong việc sản sinh và thuyết giải phát ngôn (tức phát-ngôn-thành-phẩm), song chúng chắc chắn không xuất hiện với tư cách là các sản phẩm của phát ngôn được ghi lại, và có khả năng sao chép. Tôi sẽ gọi câu theo cái nghĩa trừu tượng hơn của thuật ngữ này là câu–hệ thống (system–sentences); chúng là cái được tạo ra bởi các quy tắc ngữ pháp trong mô hình ngữ pháp cải biến của một ngôn ngữ–hệ thống (language–system) nào đó (vận hành trên một vốn từ, hay bộ từ vị, vốn là một bộ phận của cùng cái ngôn ngữ–hệ thống đó). Song thuật ngữ ‘câu’ cũng được cả ngôn ngữ học truyền thống lẫn hiện đại (cũng như trong diễn ngôn phi chuyên môn thường này) dùng với cái nghĩa cụ thể hơn.

Vậy, bây giờ cho phép tôi giới thiệu thuật ngữ câu–ngôn bản (text–sentence) theo cái nghĩa cụ thể hơn của thuật ngữ ‘câu’ – cái nghĩa theo đó câu là một tiểu lớp của những phát-ngôn-thành-phẩm và, theo đúng nghĩa của từ, có thể xuất hiện (ít nhất là trong một số ngôn ngữ) như là toàn bộ ngôn bản hoặc như là những phân đoạn của ngôn bản. Điều này cho phép ta nói rằng việc nói ra một câu–hệ thống cụ thể, chẳng hạn như:

(1)‘I have not seen Mary’

(Tôi không thấy Mary)

trong một số ngữ cảnh, sẽ có kết quả là tạo ra một câu–ngôn bản, như:

(2) I have not seen Mary

(có hoặc không có sự tương phản giữa have not với haven’t, và với một cấu trúc ngôn điệu thích hợp với ngữ cảnh nào đó). Điều này có thể trông như là sự nhân rộng các thực thể lí thuyết một cách không cần thiết. Song có một sự thưởng công rất đáng kể.

Tôi vừa nói rằng việc phát ngôn ra một câu không tất yếu đem lại sản phẩm là một câu. Dễ dàng minh hoạ điều này bằng cách dẫn ra phát ngôn của câu ‘I have not seen Mary’. Giả sử ta đang quan sát ngôn bản sau đây, ở dạng viết hoặc dạng nói:

(3) Have you seen Mary? I haven’t. Peter hasn’t either. She is never here when she should be.

Ngôn bản này gồm bốn phân đoạn, hoặc đơn vị ngôn bản (text-units), chỉ có phân đoạn thứ nhất và (có thể) thứ tư trong số này mới thường được miêu tả như là câu trọn vẹn. Phân đoạn thứ hai và thứ ba được truyền thống xem là những đoạn câu (sentence-fragments) tỉnh lược. Thế nhưng trong ngữ cảnh này, phân đoạn I haven’t cũng là sản phẩm của việc phát ngôn cái câu–hệ thống (1), hệt như cái câu–ngôn bản (2) trong những ngữ cảnh khác. (Điều này về mặt kinh nghiệm là có thể chứng minh được, bằng cách đề nghị tư liệu viên, như giáo viên dạy ngữ pháp truyền thống trong nhà trường đề nghị học sinh của họ, khôi phục I haven’t thành một câu đầy đủ.). Và nội dung mệnh đề của nó thì không thể xác định được, chừng nào ta chưa có khả năng xác định cái câu được nói ra khi thực hiện cái hành động tạo lời, mà trong ngữ cảnh này, dẫn đến cái sản phẩm là I haven’t. Tất nhiên, tình hình là tương tự với Peter hasn’t either xét trong quan hệ với câu ‘Peter has not seen Mary’ (và cũng có thể với She is never here when she should be xét trong quan hệ với câu ‘She is never here when she should be’).

Điều quan trọng là nhận thấy rằng, mặc dù tôi vừa giới thiệu một số thuật ngữ chuyên môn để xử lí những phân biệt lí thuyết cần thiết, bản thân những phân biệt này đều được chúng ta cảm nhận là có thực trong kinh nghiệm sử dụng ngôn ngữ thường ngày. Ta không khó khăn gì để xác định rằng I haven’t có nội dung mệnh đề của ‘I have not seen Mary’ trong ngữ cảnh này, của ‘I have not been to Switzerland’ trong ngữ cảnh khác, và của ‘I have not got any money’ trong ngữ cảnh thứ ba, v.v. Trong ngữ cảnh, I haven’t mất tính mơ hồ chỉ trong chừng mực ta nói được rằng câu nào trong số rất nhiều câu tiếng Anh (với cấu trúc ngữ pháp thích hợp) đã được nói ra.

Tôi sẽ tiếp tục dùng thuật ngữ ‘câu’ theo cả hai nghĩa, dựa trên sự phân biệt về trình bày giữa dấu trích đơn và chữ in nghiêng để làm rõ là tôi đang nói đến loại đơn vị nào. Hầu hết các nhà ngôn ngữ, như tôi đã nói, không nêu ra sự phân biệt rõ ràng về khái niệm giữa câu–hệ thống và câu–ngôn bản; việc này dẫn đến nhiều nhầm lẫn khi thảo luận mối quan hệ giữa ngữ pháp tạo câu và cái sản phẩm (và sự thuyết giải) của ngôn bản. Người ta ngờ rằng nó cũng làm giảm giá trị nhiều công trình về ngôn ngữ học văn bản theo quan điểm của ngữ pháp tạo sinh. Điều này là hiển nhiên bởi lí do sau: Cái nghĩa theo đó ngôn bản được sản sinh (tức được tạo ra) trong những tình huống cụ thể thì khác với cái nghĩa theo đó câu (tức câu–hệ thống) được tạo ra, với tư cách là những đối tượng toán học trừu tượng, nhờ vào các quy tắc của ngữ pháp tạo sinh.

Đọc tiếp: 9.2. Ngôn bản là gì? Và cái gì làm nên văn bản?

Video liên quan

Chủ đề